Dù dòng xói của thời gian đã làm cho có đôi chỗ khó đọc,
nét chữ mờ, nhưng ta vẫn thấy được những dòng văn khoáng đạt, sâu lắng:
“Tiếng nào đã làm được văn không phải là tiếng tầm thường, người nào đã hay về văn cũng
không phải là người tầm thường, đất
nào đã có người hay văn lại
không phải là đất tầm thường”.
Nhà văn hoá Bùi Kỷ
Lại có đoạn:
“Hội ta nghĩ rằng: Hán văn đã một ngày một lùi để nhường cái địa vị
chính đáng cho quốc văn, thì quốc văn tất có cái tương lai rất quan hệ, rất mật
thiết với nước ta, mà một bậc sở trường
về quốc văn không ai bằng tiên sinh (Nguyễn Du), giá trị quốc văn tôn lên cũng
nhờ ngọn bút tiên sinh, nay quốc dân đương cổ vũ về quốc văn, há lại quên một bậc
đã có công với quốc văn hay sao? Đã hay những bậc huân nghiệp đời trước,
không phải một mình tiên sinh, song Hội ta sùng bái tiên sinh, chủ ý chuyên trọng
về quốc văn, mong sau này quốc văn có một ngày hưng thịnh, mà cả tư tưởng học thuật đều bởi đó đằng tiến mãi lên, vậy
thì một bậc đã có công to với quốc văn tức là có công to với nước vậy”.
Cuối văn bia
khắc còn có dòng: “Hội Khai Trí Tiến Đức cẩn chí. Canh Tuất khoa Phó bảng
Ưu Thiên Bùi Kỷ bái thảo”.
Bài văn ấy gợi trong ta biết bao tự hào về tiền đồ của tiếng
Việt, hẳn người viết phải nặng lòng với quốc văn mới hạ bút như thế. Nhân đây
cũng xin nhắc lại, áng “hùng văn thiên cổ” Bình Ngô đại cáo của nhà văn hóa,
nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán, nay ta đọc được bản tiếng
Việt uyển chuyển, hùng hồn ấy cũng chính do Bùi Kỷ dịch. Bản dịch này đã trở
thành mẫu mực, khó có bản dịch nào đi vào trí nhớ người đọc sâu sắc hơn nữa.
Nhà văn hóa
Bùi Kỷ, tên chữ Ưu Thiên, sinh năm 1887 trong một gia đình khoa bảng ở
làng Châu Cầu, phủ Lý Nhân (nay thuộc thị xã Phủ Lý) tỉnh Hà Nam. Từ nhỏ, Bùi Kỷ
được cha là tiến sĩ Bùi Thức dạy về Nho học, ngoài ra còn được thầy dạy thêm chữ
quốc ngữ và tiếng Pháp.
Khoa thi năm
1908 ông đã đậu cử nhân; năm sau, ông đậu phó bảng, được bổ đi làm Huấn đạo. Dù
vậy, ông từ chối, lấy cớ phải ở nhà phụng dưỡng cha và ông nội đều đang già yếu.
Năm 1912,
chính quyền bảo hộ chọn cử ông sang Paris học trường Thuộc địa (École
coloniale). Nhân dịp này, ông đi nhiều nơi trong nước Pháp, các nước lân cận và
có dịp tiếp xúc với một số người Việt yêu nước đang lưu ngụ ở Pháp, trong đó có
chí sĩ Phan Chu Trinh. Bấy giờ các tổ chức yêu nước ở hải ngoại đã hình
thành và chắc chắn có tác động đến tâm trí, chí hướng của ông.
Do đó, 2 năm sau trở về nước, dù được tòa Thống sứ Bắc Kỳ
gọi lên bổ dụng nhiều lần, ông đều từ chối. Ông tổ chức cho gia đình sản xuất
hàng thủ công (bông vải, tre đan) xuất khẩu ra nước ngoài nhưng thất bại.
Năm 1917, ông
ra Hà Nội dạy học tại các Trường Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng Pháp chính theo lối
ký hợp đồng từng năm chứ không vào biên chế viên chức của “Nhà nước bảo hộ”.
Ngoài ra, từ
năm 1932, ông còn dạy cho Trường
tư thục Thăng Long. Trường này do một số tri thức tiến bộ và cách mạng như Phan
Thanh, Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp... lập ra đã mời
Bùi Kỷ cùng trực tiếp giảng dạy.
Ngoài việc dạy học, ông còn là một nhà biên khảo, cộng
tác với một số báo chí ở Hà Nội như
Nam Phong tạp chí, tập san của Hội Khai Trí Tiến Đức, báo Trung Bắc tân văn...
và hăng hái tham gia các hoạt động văn hóa xã hội của giới trí thức Hà
thành.
Một bài thơ của
ông đăng trên báo Trung Bắc tân văn, ta thấy được thái độ “dấn thân” của ở giai
đoạn này, tin ở thuyết định mệnh nên cứ ung dung, nhàn tản: “Đã trót vào
đời phải biết đời/ Vui lòng nếm đủ mọi nghề chơi/ Say mà mê tít còn hơn tỉnh/ Khóc chẳng ăn thua cũng phải cười/
Sá quản kêu mưa mồm chẫu chuộc/ Mà toan phơi nắng mặt đười ươi/ Vào đời đố biết
bao giờ chán/ Quả phúc dây oan cũng thế thôi”.
Nếu nhà giáo
Dương Quảng Hàm khi dạy Trường Bưởi đã biên soạn các sách Quốc văn trích
diễm, Việt văn giáo khoa thư, Việt Nam văn học sử yếu, Việt Nam thi văn hợp tuyển...
nhằm phục vụ cho việc học tập của học sinh thì Bùi Kỷ cũng vậy.
Với quyển Quốc văn cụ thể do ông biên soạn, nhà giáo Trần
Trọng Kim viết tựa, có đoạn: “Bùi Ưu
Thiên là một nhà văn học có giá trị hiện thời ở nước ta, vả lại là dòng
thi lễ khoa giáp trong mấy đời, cho nên nghề văn của ông đã tinh, mà học lực lại
uyên bác. Ông lại có lĩnh hội được cái tinh thần Tây học, và biết sự cần dùng của
người mình, bèn đem cái sở đắc
của ông mà làm ra sách này, có phương
pháp rõ ràng, ý tứ phân minh, và lời lẽ rất lưu loát. Đọc quyển sách của ông có nhiều thú vị và
lại hiểu được rõ cái quy tắc của các lối làm văn ngày xưa. Ấy là Bùi Ưu Thiên có công giúp cho sự văn học
nước ta vậy”.
Ở tập sách này
ta thấy ông trình bày rất rõ ràng các thể loại như biến thể của lục bát, song thất lục bát hoặc từ
khúc, phú, tứ lục, kinh nghĩa, văn sách v.v...
Ngay khi sách
in ra, trong tập Nhà văn hiện đại, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá:
“Quốc văn cụ thể là một quyển sách nhận xét về các lối thơ và phương pháp làm thơ văn rất có giá trị, vì
nó đã có được ba điều hay là vừa gọn gàng, vừa đầy đủ, lại vừa sáng sủa nữa”.
Ngoài ra, ông còn biên soạn Việt Nam văn phạm (với Trần
Trọng Kim), Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư (với Trần Trọng Kim, Nguyễn
Quang Oánh), Hán văn trích thái diễn giảng khóa bản (với Trần Văn Giáp)... rất
cần thiết cho các thế hệ học sinh thuở ấy.
Là một người
thầy yêu quốc văn, do đó, ông còn bỏ nhiều công sức để nghiên cứu các bản
truyện thơ Nôm khuyết danh như Truyện
trê cóc, Lục súc tranh công, Hoa điểu tranh công... Ông đã có công đóng
góp quyết định trong việc khảo cứu di sản thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du,
xác định giá trị Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ v.v...
Các bản dịch tác phẩm chữ Hán của tác giả Việt Nam do ông
thực hiện, nổi bật Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã có vị trí đáng kể trong
đời sống văn học. Ông còn thử nghiệm dịch một số tác phẩm Nôm cổ điển sang chữ
Hán như thơ Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều - một công việc rất có ý nghĩa
trên hướng giới thiệu văn học Việt
Nam với độc giả Trung Quốc.
Giữa lúc thiên
hạ đổ xô theo Tây học, lại có người quay về cặm cụi tìm cái hay, cái đẹp
trong di sản văn hóa dân tộc đặng đính chính, chú thích tường tận nhằm giới thiệu
rộng rãi thì đáng quý biết chừng nào.
Một trong các công trình nghiên cứu này, đáng chú ý nhất
là quyển Truyện Thúy Kiều, ông đã cộng tác với Trần Trọng Kim để hiệu khảo, được
giới nghiên cứu lẫn người đọc đánh
giá cao.
Trong Nhà văn
hiện đại, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan còn nhận định: “Trong văn giới Việt Nam,
ai cũng biết Bùi Kỷ là một nhà văn chín chắn. Ông viết tuy ít nhưng bài nào ông
đã viết hay sách nào ông đã biên, ông đều thận trọng, không bao giờ có sự cẩu
thả. Người ta thấy tên ông đi kèm với nhà học giả Trần Trọng Kim trên nhiều cuốn
sách giá trị; hai nhà văn họ Bùi và họ Trần đi cặp kè với nhau nhiều lần trên
đường văn chương và khảo cứu làm cho người ta phải nhớ đến cái tên Erckmann - Chatrian trong văn giới Pháp, hai
cái tên đi cặp kè và cũng nổi tiếng về văn học và sử học”.
Dù thân nhau
như hình với bóng, nhưng con
đường chính trị của hai nhà giáo đáng kính này lại khác nhau.
Thiết tưởng
nhân đây ta cũng nên biết đôi nét về nhà giáo Trần Trọng Kim - một trong những
người đã có đóng góp quan trọng trong thế kỷ XX về lãnh vực giáo dục của
nước nhà.
Một trong những
việc làm đáng chú ý nhất của Trần Trọng Kim là năm 1919, ông đã cùng ông
Schneider chủ trương tờ Học báo. Có
thể ghi nhận đây là tờ báo chuyên về giáo dục đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt
Nam. Thời kỳ này ông đã biên soạn quyển sách nổi tiếng Việt Nam sử lược.
Năm 1921, ông
lại được bổ nhiệm làm thanh tra tiểu học các trường Bắc kỳ. Sau đó, với uy tín
của mình, ông được mời làm trưởng ban soạn thảo sách giáo khoa - cùng làm việc còn có những nhà
giáo tiếng tăm như Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận...
Cho đến nay bộ sách Quốc văn giáo khoa thư do các ông
biên soạn và được Nha học chính Đông Pháp xuất bản vẫn được xem là mẫu mực. Năm
1942, Trần Trọng Kim nghỉ hưu và tiếp tục chú tâm vào việc viết sách.
Bấy giờ tình hình chính trị đã có nhiều biến động. Chỉ
dăm năm sau, ngày 9-3-1945 Nhật đã nhảy vào Đông Dương, tước khí giới của thực
dân Pháp. Nhiều trí thức yêu nước, trong
đó có Trần Trọng Kim - đã ảo tưởng về quân đội Nhật, họ nghĩ rằng có thể dựa vào Nhật để đuổi Pháp ra khỏi
đất nước.
Trong khi đó,
Đảng Cộng sản Đông Dương đã thấy cái họa của Nhật Bản, xác định lại kẻ
thù chính và chủ trương: “Phát động
một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa”.
Bi kịch chính
trị của nhà văn hóa Trần Trọng Kim là ở chỗ đã tham gia vào chính trị,
nói đúng hơn là ông bị người Nhật lợi
dụng. Lúc này trên trường quốc tế, quân Nhật đã bị quân Đồng minh đánh bại;
trong nước, cao trào chống Nhật do Việt Minh lãnh đạo đã lên cao, nhằm giành
chính quyền về tay nhân dân.
Nội các Trần Trọng Kim bị giải tán nhanh chóng trong cơn lốc thời cuộc. Rời khỏi con đường chính
trị, ông quay trở lại con đường nghiên cứu, biên khảo.
Trong hồi ký
Một cơn gió bụi (NXB Vinh Sơn -
1969) viết năm 1949, ông chua chát nhận ra: “Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng
minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp”, nhưng
thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ đầy rẫy sự trái ngược, nói một
đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách rất bá đạo ngày nay. Dùng lời
nhân nghĩa để nhử người ta vào tròng của mình mà thống trị cho dễ, chứ sự thực
chỉ vì cái lợi mà thôi, không có gì là danh nghĩa cả” (tr. 12).
Trong khi đó, ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Bùi
Kỷ đã đến với chính quyền của nhân dân. Ông là một trong số những nhân sĩ trí
thức được Chính phủ Hồ Chí Minh trọng vọng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông
là Chủ tịch Hội Văn hóa kháng chiến Liên khu III, Ủy viên Hội Liên hiệp Liên
khu.
Sau khi hòa bình lập lại, ông giữ chức Hội trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị. Bấy giờ,
dù tuổi cao sức yếu, nhưng tấm lòng yêu quốc văn vẫn còn nguyên vẹn như thuở nào, ông vẫn tiếp tục say mê công
việc khảo cứu.
Tam quốc chí
diễn nghĩa, in năm 1959 là bộ sách cuối cùng do ông hiệu đính. Phần sáng tác
thơ của ông được tập hợp thành tập Ưu Thiên đồ mặc.
Nhà văn hóa
Bùi Kỷ mất năm 1960 tại Hà Nội. Đánh giá chung về sự nghiệp của ông, Từ điển
văn học (bộ mới) ghi nhận: “Hai công trình quan trọng nhất của ông là Quốc
văn cụ thể và Truyện Thúy Kiều, cho đến nay vẫn được xem là những tài liệu tham
khảo đáng tin cậy, là cột mốc không thể bỏ qua trong lịch sử nghiên cứu bản
thân các vấn đề đó và trong tiến trình chung của ngành khảo cứu văn hóa dân tộc”.
LÊ VĂN NGHỆ
Nguồn: ANTGCT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét