Lúc viết lời bình
kịch bản Học giả Nguyễn Văn Xuân - từ trang văn đến cuộc đời, tôi
chỉ dựa vào từng thước phim đã
quay do đạo diễn Hải Anh cung cấp. Khi dựng thành phim phát sóng trên TFS của
HTV, nhà biên kịch Nguyễn Hồ đổi lại Thầy Nguyễn Văn Xuân.
Nhà văn hoá Nguyễn Văn Xuân
Thật bất ngờ, phim này đã đoạt giải Cánh diều Bạc của Hội
Điện ảnh Việt Nam năm 2001. Nhắc lại chi tiết trên, để nói rằng, nhà văn hoá
Nguyễn Văn Xuân không hề xa lạ với bạn đọc cả nước.
Giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân (NXB
Đà Nẵng - 2002), nhà sử học Dương
Trung Quốc - Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch Việt Nam ghi nhận: “Là người từng gắn bó tham gia nhiều công việc với
các đồng nghiệp xứ Quảng của ông, tôi cảm nhận được một điều: một cuộc hội thảo,
một tập kỷ yếu viết về lịch sử và văn hoá xứ Quảng mà vắng ông, mọi người đều cảm
thấy một cái gì không trọn vẹn, một khoảng trống... Nguyễn Văn Xuân là
người học rộng lại chuyên viết về xứ
Quảng nên gọi ông là nhà Quảng học hiểu theo nghĩa nào của chữ cũng đều đúng cả”
(tr. 1008).
Lịch sử đã
dành cho Quảng Nam - Đà Nẵng một sứ mệnh cay đắng và vinh quang: 5h sáng ngày
1-9-1858 giặc Pháp đã ngang ngược tấn
công thành phố này mở đầu cho công cuộc xâm lược Việt Nam.
Nhưng dưới ngọn
cờ chính nghĩa của lão tướng
dày dạn chiến trận Nguyễn Tri Phương, dân quân Đà Nẵng đã đánh bại đại
binh viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Trung tướng hải quân Rigault Genouilly! Chúng không
thể hoàn thành chiến thuật đánh nhanh, thắng nhanh mà phải rút chạy khỏi Đà Nẵng
để vào tấn công Nam Kỳ.
Đà Nẵng vẫn còn
lưu giữ nhiều chứng tích hùng hồn tố
cáo tội ác xâm lược của giặc Pháp. Rất tiếc thế hệ trẻ không mấy ai biết đến.
Phải chăng chính vì thế mà nhà văn hoá Nguyễn Văn Xuân đã dành cả cuộc đời
để ghi chép về sự tích thần kỳ của vùng đất mình gắn bó máu thịt? Có thể nói
đây là một sứ mệnh cao quý mà ông đã ý thức lúc mới ngoài 30 tuổi.
Nguyễn Văn Xuân sinh năm 1921 tại xã Điện Phương, huyện
Điện Bàn, (Quảng Nam). Điện Phương là nơi hình thành nghề truyền thống đúc đồng nổi tiếng - phải chăng điều
này cũng ít nhiều ảnh hưởng đến tư
duy nghiên cứu nghiêm túc và phong cách tiếp cận vấn đề rất tài tử của ông?
Khi nói ông có
phong cách tiếp cận vấn đề đầy tính ngẫu hứng và tài tử, có lẽ nhiều người
không đồng ý vì nó khá xa lạ với bản chất của một nhà nghiên cứu.
Nhưng thật ra, đó mới là bản lĩnh độc
đáo của Nguyễn Văn Xuân, vì trước khi trở thành nhà nghiên cúu thì ông đã là nhà văn.
Điều này cũng tương tự như Sơn Nam ở Nam Bộ, Quách Tấn ở Bình Định.
Ít ai biết rằng, từ trước năm 1945 ông đã có những truyện
ngắn in trên Tiểu thuyết thứ bảy xuất bản tại Hà Nội. Trong
đó, với giọng văn đặc sệt ngôn ngữ Quảng Nam, ông đã tạo nên bối cảnh và nhân vật
như mới từ vùng đất “Rượu hồng đào
chưa nhấm đã say” bước thong
dong vào trang văn để lôi cuốn người đọc. Vì lẽ đó, các nhà văn học sử
đã xếp ông vào thế hệ nhà văn vào nghề từ thập niên 1940.
Sống tại miền Nam trong vùng địch tạm chiếm, ông vẫn tiếp
tục sáng tác. Nhưng ý hướng của một người từng sống trong vùng kháng chiến, từng
hoạt động ở Liên khu V cùng với nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký, nhà thơ Trinh Đường... từng viết kịch phục vụ
phong trào cứu quốc... thì các tác phẩm của ông như Bão rừng, Hương máu và một loạt truyện ngắn khác in trên báo
công khai vẫn không nhập vào trào lưu văn học “thời thượng” lúc bấy giờ.
Nhân vật của
ông không phải là gái bán bar, thanh niên thác loạn... - mà ở đó là những nhân
vật anh hùng lừng danh ở quê hương ông như Ông Ích Khiêm, Nguyễn Duy Hiệu, Thái
Phiên, Trần Cao Vân...
Ông đã
viết về các nhân vật này bằng tất cả sự ngưỡng mộ và cũng là một cách bộc lộ quan điểm chính trị. Tuy viết theo kiểu
“xanh vỏ đỏ long”` nhưng nó đã có tác dụng cổ vũ tinh thần yêu nước. Ở đó, cái chết của những nhân vật anh
hùng đã gây cảm xúc mạnh mẽ ở người đọc bởi câu văn sắc lạnh, ẩn đằng sau là nỗi đau, là những giọt nước mắt
mà tác giả nén lại.
Lúc về Đà Nẵng,
thỉnh thoảng tôi nhận ra ông qua mái tóc bạc phơ. Cũng giống như bao ông lão
bình dị khác, nhưng có mấy ai biết
được rằng thời trai trẻ, Nguyễn Văn Xuân là người đi nhiều, rất nhiều? Đi và
ghi chép. Ghi chép và viết.
Ông quan niệm
rằng, nghiên cứu một vấn đề sử học không chỉ căn cứ trên văn bản, còn phải
khảo sát từ thực địa. Chính nhờ những chuyến đi điền dã không mệt mỏi, ông đã
có được tác phẩm nổi tiếng Phong trào Duy Tân, in năm 1969 tại miền Nam.
Đây là công trình đặt nền móng cho việc nghiên cứu lịch sử
về phong trào Duy Tân. Ông đã tận dụng tối đa nhiều nguồn tư liệu phong phú, từ
tư liệu viết đến tư liệu điền dã. Do đó, bức tranh của phong trào được ông dựng
lại sống động, nghĩa khí, trí tuệ, nhưng cũng vô cùng bi thương.
Mấy chục năm
qua, cuốn sách nghiên cứu này vẫn để lại ấn tượng sâu sắc, có giá trị lâu bền,
có lẽ bởi ngoài tâm huyết còn phải nói đến tài năng. Tài năng đó hoà với
trái tim nồng nhiệt của nhà văn qua một bút pháp rất riêng. Bút pháp đem tấm
lòng, tâm tình để viết lịch sử - đó chính là sức lôi cuốn và hấp dẫn của phong
trào Duy Tân.
Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc: “Những quan điểm được trình
bày trong sách nói chung là nghiêm túc, ít sai sót về mặt sử liệu và không có
những quan điểm không phù hợp với yêu cầu chính trị hiện đai”..
Có lần, với tư cách nhà báo, tôi phỏng vấn ông: “Có thể
nói, bất cứ trong thời điểm nào việc giáo dục lịch sử nước nhà cho thế hệ trẻ cũng là nhiệm vụ cấp bách
và rất cần thiết. Nhất là ở thời điểm hiện nay, khi đất nước đã mở cửa
và hội nhập với các nước trên thế giới
với nhiều luồng văn hoá khác nhau. Để gìn giữ bản sắc của một dân tộc
thì có “vũ khí” nào sắc bén hơn là
giáo dục cho mọi người ý thức về tự hào dân tộc”.
Nhà văn hoá Nguyễn Văn Xuân trả lời: “Chúng ta muốn đổi mới
mà ít học lịch sử của ta và của thế giới (nhất là quanh ta) thì thật là quá thiếu
sót. Ngày nay, sự duy tân của Phan Châu Trinh với ba nguyên tắc căn bản thì thiết
tưởng thời nào cũng phải tâm niệm:
“Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Về nguyên tắc
một và ba, ta đang thực hiện, nhưng “Chấn dân khí” còn quá thiếu sót. Ta
có thể rất tự hào về dân khí trong chiến đấu, nhưng còn dân khí để làm người đối với đất nước nhất là với thế giới mới
thì ta đã đặt ra chưa?
Hay sinh viên ngày nay chỉ có mơ ước cao xa là có bằng cấp để đi làm thầy thông,
thầy ký, lãnh lương từ các
doanh nghiệp Việt Nam và kỳ vọng lớn hơn là doanh nghiệp nước ngoài - bất kỳ nước
nào - vì ở đó lương hưởng gấp mấy lần ở ta?
Chấn dân khí ở đây chỉ là ví dụ nhỏ. Nó còn lớn lao và
sâu sắc trong mọi hoạt động mà xuất phát không phải tự thân, còn đòi hỏi ở một
hiến pháp và một nền giáo dục nặng về khai phong”'.
Vấn đề ông đặt ra quả đáng để chúng ta lưu ý và cũng đang
là mối quan tâm của nhiều người. Nhiều
người cho rằng, trong nghiên cứu học thuật, chính vì hay “cãi” nên ông
luôn đưa ra những ý kiến khác người. Đúng thế, tạo nên sự độc đáo và bản lĩnh
Nguyễn Văn Xuân chính là thời điểm ông công bố biên khảo giá trị Chinh
phụ ngâm diễn âm tân khúc.
Qua công trình này ông quyết “cãi”: dịch giả Chinh
phụ ngâm không phải Đoàn Thị Điểm mà chính là Phan Huy Ích. Luận cứ của
ông đưa ra là bản dịch mà ông tìm được trong thư viện gia đình của một bà chúa ở
xóm Âm Hồn ngoài Huế.
Từ chứng cứ này, vấn đề ai là dịch giả Chinh phụ
ngâm một lần nữa đã tạo nên cuộc tranh luận dữ dội. Và đến nay đã ngã
ngũ chưa? Câu hỏi này, khó có thể trả
lời một cách dứt khoát, kể cả học giả Hoàng Xuân Hãn khi công bố Chinh
phụ ngâm bị khảo.
Chưa hết.
Chính từ những chuyến đi điền dã, ông thu thập được nhiều vốn quý để viết
Khi những lưu dân trở lại, trong đó, ông đã đưa ra một nhận định hoàn toàn mới ở
thời điểm đó và qua kiểm nghiệm của thực tế đến nay càng thấy đúng: ở miền Nam,
văn học trình diễn rất quan trọng.
Ngoài Bắc, văn là để xem; trong Nam, văn là để nói. Thơ lục
bát của Nguyễn Đình Chiểu là để nói. Người ta nói thơ Lục Vân Tiên, thơ Thông Tàm, thơ Mụ Đội, vè Chàng Lía...
Nói là phong
cách lớn của văn học miền Nam góp vào văn học Việt Nam nói chung. Kết tinh của
phong cách này là văn học trình diễn. Thật vậy, ở Trung Nam Bộ còn có
câu ca dao:
Ai về Bình Định mà nghe
Nghe thơ chàng Lía, nghe vè Quảng Nam.
Do phong cách
tiếp cận vấn đề đầy tài tử như tôi đã nêu trên, ở nhận định quan trọng
này, ông đã đưa ra nhận xét thú vị và dân dã đời thường: Bánh chưng ngoài Bắc
thích hợp với sự cố định, để nguyên một chỗ; bánh tét trong Nam là thứ thích hợp
cho di chuyển, xách mang. Miền Bắc nền nã, cố định; miền Nam năng động và trẻ...
Cho đến lúc dù ở độ tuổi “cổ lai hy” nhưng thói quen đọc
báo buổi sáng của Nguyễn Văn Xuân cũng không bỏ. Theo ông, đó là thói quen của
thị dân luôn khao khát tiếp cận với thông tin mới. Lúc nhìn ông thong thả nhả
khói thuốc lên nền trời xanh, ta có cảm tưởng đời sống gia đình của ông may mắn hơn người khác chăng?
Không phải
đâu. Nếu trong sự nghiệp rạng rỡ, thành công bao nhiêu thì trong góc khuất
cuộc sống gia đình của ông lại đầy đau thương, oan nghiệt bấy nhiêu. Những mảng
sáng tối trong đời ông luôn đan xen lẫn lộn. Cái giá phải trả cho niềm say mê
văn học và nghiên cứu văn hoá của ông không thể kể xiết: người bạn đời, ba đứa
con của ông đều bị tâm thần và ông sống chung cho đến hết đời trong một căn nhà
nghèo khó...
Với một hoàn cảnh không bình thường như thế nhưng ông vẫn yêu đời, vẫn sống và viết.
Tôi nghĩ rằng, ông viết không chỉ để mưu sinh nuôi vợ con mà còn là một
thú vui an nhiên tự tại giữa cuộc đời này. Và cứ thế, mỗi ngày ông lại viết, lại
đưa ra những vấn đề hữu ích cho người đọc mà ông đã dày công nghiên cứu.
Suốt một đời người chỉ sống và viết về lịch sử địa phương
của mình dưới nhiều dạng từ sáng tác
đến biên khảo... bằng tất cả tâm huyết và lòng nhiệt thành yêu nước thì những đóng góp của ông
không còn thu gọn trong một địa phương cụ thể nữa.
Nó còn hữu ích, còn đóng góp cho lịch sử nơi khác khi ta
đặt những trang viết ấy trong một tổng thể chung. Không ai có thể bác bỏ quan
niệm: lịch sử địa phương quan hệ mật thiết với lịch sử đất nước. Có lẽ, không lời
tôn vinh nào xứng đáng hơn khi gọi ông là “nhà địa phương học”với đúng nghĩa
cao quý của cụm từ này.
Ghi nhận đóng góp của ông, từ năm 2013 tại Đà Nẵng có con
đường mang tên Nguyễn Văn Xuân, cùng đợt với các nhà văn Phan Khôi, Hoàng Châu
Ký, Thu Bồn và Tế Hanh.
LÊ VĂN NGHỆ
Nguồn: Báo Đà Nẵng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét