Nhà thơ Phạm Trung Tín
Phạm Trung Tín
đến với Hội thơ Sao Khuê bằng hành trang thơ của một thời gian khổ ác liệt vừa đi qua và những
ký ức, hoài niệm trong mấy chục năm đất nước hòa bình xây dựng và phát
triển trên con đường hội nhập thế giới.
Vốn là một người
lính ra đi từ vùng quê Vĩnh Bảo của thành phố Cảng, thành phố hoa phượng đỏ, anh dấn thân vào vào trận mạc của cuộc chiến
tranh giải phóng và bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc . Trở về đời thường, anh
đem tất cả vốn liếng những gì có được của riêng mình… vào thơ một cách tự nhiên, bình dị.
Tập bản thảo thơ mà Phạm Trung Tín tích tụ đuợc hàng mấy chục năm, mang tên “Dặm dài ký
ức” ngót một trăm bài, phần nào giãi bày tâm tư, tình cảm của anh trong cuộc hành trình đầy thăng trầm qua gần nửa
thế kỷ. Đây là những bài thơ chứa
chan tình cảm, những vui buồn, mất mát của anh, được rút ra từ một
tập thơ chép tay thật cần mẫn công phu như muốn giữ nguyên cả quãng đời mà anh
đã đi qua.
Tôi làm thơ đã
mấy chục năm, phải rứt ruột bỏ đi rất nhiều đứa con tinh thần, chọn cái tinh bỏ
cái thô, nên càng trân trọng những bài thơ đang ở dạng mộc mạc của Tín, không muốn lược đi bài nào vì nó là một
phần “máu thịt”của anh. Tập thơ in
ra chắc sẽ dầy dặn, bề thế, là đứa con tinh thần đầu lòng mà anh chăm
chút hứng khởi ghi lại cả một dặm dài ký ức; làm sao thiếu đuợc những bài thơ đau đáu về quê hương đồng chua nước lợ,
bạt ngàn xanh lúa nhìn ra hướng
biển bao la; tình cốt nhục ông cháu, cha mẹ, anh chị em ruột rà và đồng
đội thân thương bước vào tuổi xế chiều hay đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường.
Những câu thơ
dẫu còn mộc mạc chân quê gieo vào người đọc những ấn tượng khó quên:
Qua đò Đống đến chợ Lầy
Tháng hai phiên chợ gánh đầy oằn vai
Bữa cơm độn nửa sắn khoai
Mẹ đơm đầy bát - con trai ăn nhiều
(Quê hương)
Từ nay gác lại bao mơ uớc
Mái trường, bè bạn, những người thân
Ruộng cao, mẹ gọi em tát nước
Đồng xa, mình bố kéo xe phân
(Vào quân ngũ)
Dường như cả tập
thơ, Phạm Trung Tín ghi lại cảm xúc của mình qua những sự kiện, dấu ấn
thời gian không thể phai nhòa. Những tình cảm dạt dào, tình thương day dứt, nhung nhớ khôn nguôi cứ trào ra
không dứt:
Cháu
về ông đã khuất xa rồi
Nấm mộ cỏ xanh một góc trời
…
Ông đã đi xa về thiên cổ
Để lại lòng đau nỗi xót xa
(Nhớ ông)
Đêm
khuya trằn trọc mấy lần
Thương cha mẹ, xót anh thân khốn cùng
…
Dù cho nặng nỗi nhớ nhung
Con luôn vững chí bước cùng anh em
(Nỗi lòng)
Và thương anh
trai bệnh tật ốm đau, anh lại xót thương em gái bị tai nạn nơi hậu phương xa
xôi:
Nghe tin em bỏng nửa cánh tay
Đau lắm hả em tuột da rồi
Bảy tuổi thơ ngây sao chịu nổi
Nắng hè nung… nhức nhối Tuyết ơi
(Xót thương em gái)
Với em
trai, anh chẳng cầm lòng:
Thư em viết mấy dòng da diết
Mà
lòng anh man mác nỗi niềm
Em
trai đang tuổi mười lăm
Ốm
đau tàn tật tháng năm tủi sầu…
(Thương về em trai)
Nỗi đau cứ thế kéo dài từ Tin anh lâm bệnh” cho đến “Nỗi
đau vĩnh biệt”, tâm tình của người
chiến sĩ như trải hết vào khoảng thời gian dài đi qua chiến trận và cả những
tháng năm đi tìm đồng đội, khắc phục hậu quả những tồn đọng của chiến
tranh. Tâm can của tác giả như dồn hết những bài thơ mang nặng nghĩa tình và cả nỗi đau, niềm
trắc ẩn với người thân và đồng đội:
Bàn thờ anh
cơm canh mỗi bữa
Các em mời, anh nhớ về ăn
Thắp nhang mẹ khóc bao lần
Nghẹn ngào em gọi tên anh sớm chiều
(Nỗi đau vĩnh biệt)
Tập thơ Dặm dài ký
ức của Phạm Trung Tín
Thơ Phạm Trung
Tín chân chất giản dị như con người anh, không hoa mỹ, cầu kỳ mà bằng phương
pháp tả thực nên anh đã nói được hầu hết nội tâm trong các bài thơ tự sự . Đây là cách biểu đạt thơ ở thời
đất nước ta có nhiều biến động và trải qua những khủng hoảng, khó khăn . Ngày
nay thơ không còn dàn trải như thế, đã ngắn gọn hàm súc rất nhiều, nhưng ta trọng cái tình của anh, cái tâm
trong sáng của người viết. Mặc dù vậy,
thơ anh cũng mang dáng dấp trữ tình lãng mạn khi nói về tình yêu, tình bạn,
tình quê hương…dẫu còn đôi
khi hoài cổ:
Bài thơ này em thầm viết tặng
anh
Xuyên nỗi nhớ tám năm trời thao thức
Lòng như mơ giở từng
trang ký ức
Qua những chặng đường anh cùng đồng đội xông pha
(Nỗi nhớ)
Trong bài “Yêu”, gửi Ngọc Mỹ – người bạn đời yêu quý, Trung Tín gửi gắm lòng
mình vào những vần thơ tha thiết nồng
say:
Anh
say đắm uống đầy ánh mắt
Em trinh nguyên dịu ngọt bờ môi
…
Đừng trách lính vụng về em nhé
…
Thương nhau xin chỉ khóc ít thôi
…
Ta theo tiếng gọi của lòng
Yêu nhau được sống trong vòng tay nhau
(Yêu)
Qua bao hạnh phúc tròn đầy viên mãn trong tình chung thủy
yêu thương, tưởng như mãi mãi
nuôi dưỡng nguồn sáng cuộc đời, thì
nỗi đau “tim vỡ” đến với anh . Định mệnh khắc nghiệt của tạo hóa khiến anh hụt
hẫng quặn lòng khi người vợ vĩnh viễn
ra đi:
Bốn
mươi tám năm, mới non nửa cuộc đời
Hai mươi năm xuân, chưa trọn tình chồng vợ
…
Mười một năm bạo bệnh, chồng cõng vợ
chạy chữa tứ phuơng
Hai chín ngày hôn mê, con bồng mẹ
cầu xin tám hướng
…
Tận cùng của bất hạnh là cái chết
Một sáng đau buồn – em mãi mãi biệt ly ;
…
Mười năm biến đổi
Vạn nỗi u buồn
…
Tóc đã điểm sương đường vạn lý
Tri âm tri kỷ biết tìm ai ?
…
Bâng khuâng buồn khôn tả
Ai mãi còn trong ai?
(Kỷ
niệm mười năm em đi xa)
Bài thơ dài
như một lời ai điếu khép lại niềm đau vô hạn của Phạm Trung Tín. Vĩ thanh của
nó còn vắt qua thời gian gập ghềnh trôi… vòng quay nhân thế sẽ chuyển lưu với mỗi đời người, Phạm Trung Tín đã
vượt lên số phận bằng nghị lực và khả
năng của mình. Hạnh phúc lại đến với anh làm dịu vợi nỗi đau năm tháng.
Niềm đam mê như ngọn lửa trong tim
anh lại cháy lên những vần thơ lạc quan trong sáng, mang hơi thở của thời đại mới.
Thi ca như một phép màu kéo con người lên từ vực thẳm khổ đau. Và người thơ lại
thấy mình như “từ thung lũng
đau thương ra cánh đồng vui”. Xin chúc anh có những niềm vui mới trong cuộc sống
và ngọn bút cầm tay trào chảy những dòng thơ mới đầy yêu thương vì hạnh phúc và
phẩm giá con nguời.
LAM GIANG
Theo NVTPHCM
________________________________
Nhà
thơ Phạm Trung Tín sinh ngày 12 tháng 12 năm 1956 ở xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng. Tốt nghiệp Cử nhân triết học và Cử nhân kinh tế. Hiện thường
trú 340/2/21 Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp, TP. HCM và 19/15 đường Vĩnh
Phú 02, khu phố Đông, phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Sau
khi học hết cấp III ở quê hương Hải Phòng, Phạm Trung Tín đã gia nhập quân đội
từ năm 1973 - 1979, phiên thuộc Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4. Tháng 4
năm 1979, ông chuyển ngành về Bộ Công nghiệp nhẹ, học tập trung tại Trường Công
đoàn TP.HCM, học tại chức Trường Đại học Tuyên giáo và Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM.
Từ
năm 1995-2007, ông là Trưởng phòng Pháp chế KDXNK, Chủ tịch Công đoàn Cty DVKT
Thủy sản Vũng Tàu, Tổng Cty Hải sản Biển Đông, Bộ Thủy sản Việt Nam. Ông nghỉ
hưu từ năm 2008, về tham gia công tác địa phương và sinh hoạt sáng tác thơ ca.
Hội
viên Hội Nhà văn TP.HCM năm 2015.
Tác
phẩm đã xuất bản:
- Dặm
dài ký ức (thơ), NXB Thanh Niên năm 2013
- Miền
tâm tưởng (thơ), NXB Hội Nhà văn 2014
- Lời
của đá (thơ), NXB Hội Nhà văn 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét