1. Triết lý truyền thống của cha ông ta về vũ
trụ (thế giới) là một dạng hoạt động nhận thức cao, bao gồm cả trí tuệ và tình
cảm, kinh nghiệm và lý tính, là “hạt nhân của thế giới quan” và cũng là “triết
học của văn hoá”. Đối với người xưa, triết lý là phương thức, công cụ hữu dụng,
hiệu nghiệm để nắm bắt thế giới hiện thực, đưa dẫn nhận thức có tính bách khoa,
tổng hợp, khái quát, trừu tượng và dự báo vào đời sống thực tiễn và giáo dục
con người. Chính trong triết lý về vũ trụ, con người hiểu được thế giới xung
quanh, hiểu được bản thân mình và làm nên một bản sắc nhận thức của dân tộc.
Trước khi đến “thời hiện đại” triết lý về vũ trụ là thứ “khoa học” duy nhất để
con người Việt Nam tiếp cận tự nhiên, xã hội, bộc lộ ý thức, nhận thức có tính
triết học về vũ trụ theo “hệ quy chiếu” hoạt động thực tiễn và văn hoá dân tộc.
2. Đối với người Việt “tiền hiện đại”, vũ trụ
là một tổng thể nhiều thành phần, một chỉnh thểthống
nhất, một hệ thống toàn vẹn với những mối liên hệ nội
tại vừa thống nhất và tập trung, vừa phong phú và đa dạng. Sự tồn tại
của vũ trụ phụ thuộc vào bản chất, quy luật vốn có của nó.
Về đại thể, vũ trụ bao gồm ba thể: “Trời - Đất - Người”. Trời là
một thể bao quanh Đất và Người, bao gồm khoảng không, mặt trời, tinh tú, có
hình tròn, màu sắc thay đổi, tức là “hữu hình”, “vô thuỷ vô chung”, “vô tận, vô
hạn”. Trời được tạo lập từ “khí hỗn nguyên” (hỗn hợp và nguyên thuỷ), “khí nhất
nguyên”, có bản thể vật chất, vận hành (vận động) vừa trùng lặp, tuần hoàn, vừa
biến đổi, vô thường với thời gian của chính nó. Trời là vật chất, vật thể hữu
hình nên nó được thể hiện bằng các sự vật, hiện tượng cụ thể - cảm tính mà con
người có thể nhận biết được. Đất cũng là một thể của vũ trụ, ở
dưới trời, bao gồm và nuôi dưỡng muôn loai, và là nơi con người sinh sống có
hình vuông, ranh giới hữu hạn, màu sắc, hình thể bề ngoài phong phú. Đất cũng
được tạo lập từ khí hỗn nguyên, có bản thể vật chất, cũng vận hành vừa trùng lặp,
vừa biến đổi, được biểu hiện bằng vạn vật cụ thể - cảm tính. Người tồn
tại trên đất và ở dưới trời (thiên hạ), là sinh vật cao nhất trong muôn loài vì
có “trí khôn” (trí tuệ, lý trí), có tình cảm, biết chế ngự, sai khiến các loài
khác, biết tạo ra các vật dụng cần thiết. Người cũng do khí nhất nguyên sinh
ra, nhưng tồn tại nhờ Trời và Đất, có thân thể, tức là có bản thể vật chất, từng
người thì thân thể sống có hạn, nhưng loài người thì sống mãi. Cái nhân bản là
cốt lõi quy định tính người (phân biệt với muôn loài xung quanh) và cũng là điều
kiện quy định trực tiếp sự tồn tại của con người: lao động (tạo ra của cải
để sống), thương người (nhân nghĩa), cố kết cộng đồng - dân tộc (quan hệ cá
nhân - gia đình - làng xã - quốc gia). Hệ thống “Trời - Đất -Người” có mối liên
hệ hữu cơ, có tính “chủ toàn” nhất định; song, trong đó, mọi thể cũng quy định
lẫn nhau mang tính biện chứng. Mỗi thể tồn tại nhờ mối quan hệ chung của vũ trụ
và mối quan hệ giữa từng thể với nhau; trong đó, thể Người - con người phải tự
ý thức, biết lợi dụng thế giới xung quanh đáp ứng nhu cầu, lợi ích và mục đích
của mình, nhưng vẫn bảo đảm tính hài hoà, hoàn thiện của vũ trụ (Lạy trời mưa
xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm…), vì con người là
một phần của vũ trụ. Trước Trời - Đất đầy quyền uy phi thường (bão lụt, hạn
hán, động đất, núi lở, thời tiết thất thường, dịch bệnh, sâu keo…), con người
phải khẳng định quyền sống của mình bằng trí khôn, sáng tạo để thích nghi và vượt
mọi trở ngại. Mặt khác, con người cũng gắn vào thế giới vật chất những thế
lực siêu nhiên: Trời có ông Trời, “vị chủ tể của muôn loài”, với thiên mệnh;
Đất có Diêm vương (vua địa ngục), âm phủ, có địa linh; Người có số mệnh (định mệnh),
linh hồn, kiếp trước kiếp sau; vạn vật có “tinh” (bái vật giáo - tôtem) - tất cả
đều thuộc một hệ thống tôn ti, trật tự, “phiên bản ảo” của xã hội con người. Có
thể xem đây là biểu hiện dấu vết của “tư duy nguyên thuỷ” hoà trộn với “phản
ánh hư ảo”, trong đó “những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế” trong thế giới quan thần linh chủ nghĩa, như quan điểm mácxít đã
lý giải(1). Ở đây, cái thế giới siêu nhiên, siêu trần thế không được xem là khởi
nguyên của vũ trụ, cũng như chưa bao giờ có vị thế quyết định bản thể vật chất
của vũ trụ và con người - cái “ảo” được gắn bên cạnh cái “thật”. Trong không ít
trường hợp, niềm tin “hão huyền” nói trên như một thứ “gia vị” của cuộc sống hiện
thực.
Về bản thể của vũ trụ, Thái cực - Khí
hỗn nguyên, tức vật chất, tạo nên vũ trụ. Khí có trước vạn
vật, sinh ra vạn vật và tồn tại trong chúng, mỗi sự vật riêng lẻ đều sinh thành
từ Khí và tồn tại nhờ Khí, trong Khí.
Khí tồn tại vĩnh hằng nhưng vô thường, biến hoá khôn lường. Con người
có thể nhận biết được Khí thông qua việc hiểu thấu vạn vật
trong vũ trụ và cái Lý của chúng. Lý là cái
thực hữu ở trong Khí, thuộc tính của Khí. Nói
theo thuật ngữ hiện đại, Lý là cái thuộc quy luật, nguyên lý,
quy tắc, trật tự có tính chung nhất, phổ biến nhất của mọi sự vật, của vũ trụ
nói chung; nó tồn tại vừa hằng thường (độ thường, bất biến), vừa vô thường
(chuyển hoá, biến đổi). Từ Lý, người ta mới hiểu được sự vật và hiểu
được mọi điều liên quan đến sự vật đó, đồng thời có cơ sở để hoạt động trong cuộc
sống vật chất và tinh thần của mình, sáng tạo nên những cái cần thiết cho con
người. Con người có thể nắm được “Lý huyền diệu của trời đất”: nhưng phải trải
qua kinh nghiệm, thực tiễn với một quá trình dường như bất tận. Hiểu thấu Lý, con
người sẽ sống phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài cũng như với chính bản tính nhân
bản của mình. Nhờ nhận thức được Lý, con người mới tìm ra, tạo nên
cái Phải, cái Đúng, cái Đẹp để có được cái Đạo. Trên danh nghĩa, Đạo là
cái vốn có ở vũ trụ, nhưng thực chất, nó là sự nhận thức chủ quan của ý thức xã
hội, “phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định”, là sản phẩm của
những quan niệm chính trị, hệ tư tưởng pháp quyền, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo
trong một điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá nhất định. Vì vậy, Đạo mang
nội dung xã hội, ý thức xã hội của các giai cấp, đẳng cấp, tầng lớp trong cộng
đồng dân tộc trước đây. Đạo là một tổng thể những yếu tố, chuẩn
mực, giá trị xã hội đòi hỏi con người phải tuân theo trong các quan hệ xã hội
và quan hệ của con người với tự nhiên; nó có tính bền vững tương đối và có sự
biến đổi, phát triển nhất định. Nhìn chung, Đạo được phân biệt
thành Đạo trời đất (“Đạo trời”), Đạo người (“Đạo
làm người”). Đạo trời là hình thái cao nhất, chung nhất, phổ biến nhất của Đạo;
trong đó, bao gồm những yếu tố, chuẩn mực, giá trị xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân
và toàn cộng đồng xã hội phải tuân theo trong mọi quan hệ xã hội và quan hệ của
con người với tự nhiên, đặc biệt là trong mối quan hệ của mọi người với vận mệnh
của dân tộc, quốc gia. Đạo người được quy định thành nhiều loại tuỳ theo địa vị,
vị thế, vị trí xã hội (phụ thuộc vào sự khác biệt đẳng cấp, giai cấp, tầng lớp
và kết cấu xã hội nói chung) như Đạo vua tôi, Đạo cha con, Đạo thày trò, Đạo
làm con, Đạo làm dân một nước. Như vậy, Đạo là sản phẩm xã hội
biểu hiện nhu cầu, lợi ích và mục đích, lý tưởng xã hội nhằm điều hoà, điều chỉnh,
ổn định thực trạng cộng đồng dân tộc và các quan hệ xã hội hiện thực. Chính điều
đó đã làm cho triết lý thường xem Đạo là cái trục, xương sống của mọi quan niệm,
mọi tư tưởng mà triết lý biểu hiện. Tuy nhiên, cả Lý lẫn Đạo,
trong mối quan hệ với các quan niệm khác của triết lý (như Trí, Lễ, Văn, Phúc,
Thiện, Nhân,…) thường nằm trong “sự vận động của các khái niệm, mối
liên hệ giữa chúng, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng” (2) như
V.I.Lênin đã chỉ rõ.
3. Thật khó khẳng định rằng, cha ông ta đã có
một tiếng nói chung, thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về vũ trụ (bao gồm cả
về nhân sinh). Tuy nhiên, từ nền móng của một tồn tại dân tộc có tính đặc thù,
tính riêng biệt nhất định, có thể nhận thấy những đặc điểm chung trên
phương diện triết lý về vũ trụ.
Đối với cha ông ta xưa, thế giới là một tổng thể
vật thể (vật chất) liên kết, tổng hoà giữa các bộ phận mà nếu tách rời
nhau thì không một cái riêng biệt nào tồn tại như nó vốn có và không còn là nó.
Trời, Đất, Người, vạn vật tự nhiên, sản phẩm nhân tạo - tất cả đều nằm trong mạng
lưới quan hệ, xâm nhập, quy định, hoà hợp lẫn nhau, với cái riêng vẫn được xác
định, trong một tổng thể thống nhất (vũ trụ). Ngay cả đời sống tinh thần, ý thức,
tâm linh của con người cũng được “hội nhập” với các vật thể tự nhiên của vũ trụ.
Quan niệm vũ trụ mang tính toàn vẹn, tính chỉnh thể gắn
liền với quan niệm về sự biến đổi của vũ trụ nói chung, của từng
vật thể riêng biệt của nó. Sự biến đổi chung và sự biến đổi riêng không tách rời
nhau, tác động, quy định lẫn nhau. Sự biến đổi nội tại, bản chất dẫn đến sự biến
đổi hình thức, hiện tượng, cũng như sự biến đổi bề ngoài là biểu hiện của sự biến
đổi bên trong. Sự biến đổi của vũ trụ cũng như của mỗi thể, mỗi sự vật là khôn
lường, có thể tuần hoàn - tăng tiến; đồng bộ - so lệch; nhanh - chậm; ít - nhiều;
mất - còn; lớn -nhỏ… Xét toàn cục, mọi biến đổi không làm vũ trụ biến chất, cũng
như sự biến đổi của các sự vật chỉ là chuyển cái này thành cái khác, trong
khuôn khổ tự điều chỉnh của các vật thể, của vũ trụ (Vật đổi, sao dời - Sống gửi
thịt, chết gửi xương); tức là sự biến đổi luôn song hành tĩnh và động, thường
và biến. Vì vậy, trời đất (vũ trụ) luôn “đổi thay” (biến đổi, vận động) nhưng
luôn vẫn là trời đất; trong đó, mỗi sự vật cũng luôn nằm trong tư thế “có có,
không không”.
Như trên đã nêu, con người là một phần của tự nhiên cùng
với cái nhân bản của mình. Ý thức được cái nhân bản chính là cái xã hội, triết
lý dân tộc đã hướng vào những quan hệ giữa người với người, quan hệ cộng
đồng, dân tộc trong mọi mặt của hiện thực, như quan hệ lao động sản xuất,
kinh tế; quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, văn chương, nghệ thuật,
tôn giáo, phong tục, tập quán, sinh hoạt thường nhật, nếp sống xã hội; quan hệ
với thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Triết lý đặc biệt tập trung vào đạo làm
người với tính nhân văn của nó và quốc gia độc lập, tự chủ, tự cường với tinh
thần yêu nước của dân tộc. Sự phân chia trên chỉ là tương đối, bởi triết lý của
người Việt thường “đa nghĩa”, tính khái quát, tổng hợp, bách khoa của nó có thể
được hiểu và vận dụng vào những lĩnh vực, hoàn cảnh cụ thể nhất định, nhưng
cũng có thể vào đời sống xã hội chung, hoạt động thực tiễn chung của con người
như những nguyên lý, quy luật phổ biến (thường thấy trong tục ngữ, thơ văn ngôn
chí). Ngay trong triết lý về tự nhiên, cũng thường mang nội dung, ý nghĩa như
triết lý về xã hội; bởi, cả hai đều nằm trong Lý và Đạo.
Xét cho cùng, muốn hay không, con người đã tự xem mình là “điểm hẹn” của Trời Đất,
“tinh hoa” của Tạo Hoá.
Cơ sở, mục đích, động lực chủ yếu và trực tiếp của triết
lý Việt Nam chính là thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Tính thực tiễn, giá trị thực tiễn của các quan niệm về vũ trụ được thể hiện: a/
Xác định những tri thức chung cần thiết nhằm làm cho cộng đồng có nhận thức phù
hợp với thực tiễn dân tộc (lao động sản xuất, kinh tế - xã hội, bảo vệ đất nước),
phòng tránh “thực tiễn mù quáng”; b/ Cảm hoá con người theo chuẩn mực của “Đạo
làm người”, giáo dục nhân cách theo tinh thần nhân bản, nhân văn trong quan hệ
xã hội mang bản sắc dân tộc; c/ Tạo lập một hình thái tư duy “cao cấp”, vượt
lên trên tầm kinh nghiệm nhỏ hẹp, giản đơn để vươn lên nhận thức vũ trụ có tính
khái quát, tổng hợp, trừu tượng, đem lại sự hiểu biết sâu hơn, đầy đủ hơn về bản
chất thế giới xung quanh, tạo cho con người năng lực cải tạo và dự báo hiện thực;
d/ Nội dung của triết lý về vũ trụ chứa đựng không ít yếu tố văn hoá dân tộc; đồng
thời, triết lý này lại trở thành “linh hồn” của văn hoá đó; đ/ Quá trình hình
thành, phát triển của những quan niệm về vũ trụ là quá trình sáng tạo tương ứng
với nhu cầu tồn tại, phát triển của dân tộc, kể cả việc sáng tạo lại, Việt hoá
những nhân tố triết học về thế giới quan được tiếp nhận từ bên ngoài (Trung Quốc,
Ấn Độ).
Nhìn chung, quan niệm về vũ trụ cổ truyền của dân tộc ta
chủ yếu mang tinh thần của chủ nghĩa duy vật mộc mạc (tiền khoa học hiện đại)
và không tránh khỏi sự pha trộn những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm, cũng như
phương pháp biện chứng “giản đơn” của nó đã xen lẫn phương pháp siêu hình “ngây
thơ”. Triết lý truyền thống Việt Nam chủ yếu xuất phát từ kinh nghiệm, nhưng đã
đạt tới tri thức lý luận. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” (3). Lý luận về vũ trụ của
triết lý thuộc nhận thức của cha ông ta đã đóng vai trò là một trong những nhân
tố, yếu tố của sự phát triển đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam từ xưa cho
đến cả ngày nay. Phải chăng, đó cũng là một mạch “tinh huyết” làm nên “thần
khí” của văn hoá phương Đông?
VŨ MINH TÂM
Nguồn: Tạp chí Triết học số 1, tháng 1-2009
______________
(1) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.437.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.267.
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.497.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét