Nhà thơ Hoàng Thuỵ Anh
Tập thơ này của Hoàng Thuỵ Anh có nhiều câu thơ mang thông điệp
tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả một cách hiển nhiên minh bạch. Và đây là điều
hiếm thấy trong thơ ca xứ mình từ rất lâu nay. Như bốn câu thơ sau đây:
chữ tôi
ý niệm tôi
phiên bản
tôi
cơn khát tự
do không bao giờ vô sinh
(khát)
Có hơn một
cách để diễn giải mấy câu thơ trên. Nhưng hãy để ý trước hết đến âm hưởng và nhịp
điệu. Những từ rơi vào nhịp định âm đều là thanh không, với một thanh bằng tạo
đà cho nhịp cuối: tôi - tôi - tôi - do - giờ - sinh.
Âm hưởng của các câu và ngữ đoạn như thế hướng thượng, căng và chắc. Chúng là
những khẳng định, bằng cả ngoại diên và nội hàm, tự nhiên, nhất quán, và chân
thành.
Thông điệp đó
nói rằng nhà thơ thức nhận thơ như trọn vẹn thân thể với tinh thần mình. Thơ là
mình. Và vì thế cũng là thế giới, bởi lẽ thân thể đối với người đàn bà chính là
thế giới. Như ở hai câu thơ khác, chị viết:
sáng sáng
bên vòi ký ức
em kỳ cọ
đánh răng làm mới nỗi đau
(nỗi đau chưa hề biết ngủ
bao giờ)
Hình ảnh tươi
mới và chất thơ tuyệt hảo. Một người đàn bà “kỳ cọ” và “đánh răng” đấy ư? Nhưng
phải hình dung thế nào về một cái “vòi ký ức” dẫu rằng nó đã được giải thích ở
vế sau, đăng đối ngầm ẩn, là để “làm mới nỗi đau.” Và thế là tính siêu thực của
cái “vòi ký ức” đã phát lộ cái thân thể đang ý nhị giấu mình vào “kỳ cọ,” “đánh
răng, “nỗi đau,” đồng thời cũng phát lộ tính ẩn dụ của cái thân thể ấy.
Trong thơ
Hoàng Thụy Anh, thân thể đàn bà, cũng như thân thể con người nói chung, là nguồn
ẩn dụ thơ ca chủ yếu và vô tận.
Và chẳng nên vội
cho rằng nhà thơ chỉ mải đuổi theo trò chơi chữ thi vị hóa thân xác hay ham muốn.
Bởi thân xác là thế giới, Hoàng Thụy Anh nhìn thấy thế giới trong thân xác như
là thân phận. Đó là cái nhìn phê phán sắc bén, độc đáo. Chẳng hạn, chị thấy:
khi mọi thứ
khỏa thân và tìm cách độn mông bằng lớp giấy nhàu nhĩ
bên cạnh những
con chuột cống bận trò chơi ái ân
mưa chiều
đái ra tràng ho tanh máu như bản năng của kẻ có quyền hoán đổi vị trí đêm ngày
bầu vú
thành phố ngập ngụa trong thứ sữa lắc lư
đen &
đen & đen
(trò chuyện với
hai chú cá về những điều ngoài cơn mưa)
Trong bức hoạt
kê đầy âm hưởng chua chát soi rọi vào cái thế giới bên ngoài bằng một cảnh ngổn
ngang những thân thể điệu bộ kỳ quặc như thế, ngữ đoạn đầy tính biểu hình với mưa
chiều đái ra tràng ho tanh máu là một trong những ví dụ nổi bật cho thấy
nhãn quan và thái độ của nhà thơ về tính trừu tượng và tính siêu thực của thân
xác như là thân phận, chứ không phải, hoặc hơn là, thân xác như cái biểu đạt của
ham muốn.
Nhưng, tựa như
quy luật, phần chủ yếu những bài thơ trong tập này xoay quanh những khám
phá trữ tình về con người thi sĩ – nơi mà cái thân thể trở nên trừu tượng mỗi
khi nó tự nhận thức mình trong ánh sáng của cái tinh thần dường như nhục thể:
chúng đổi chỗ với nhau, một cách ẩn dụ. Sự khám phá như thế tất nhiên
luôn luôn mở sang sự khám phá con người xa rộng hơn một cá thể.
Tập thơ Người đàn bà sinh ra từ mưa của Hoàng
Thuỵ Anh
Bài thơ được lấy
tên đặt làm tên cho tập thơ này cho thấy điều ấy rất nổi trội; và đồng thời quy
tụ cả hai tập hợp hình ảnh ví von đa nghĩa nhất, đa dạng nhất và gặp được nhiều
nhất trong những bài thơ ở đây: tập hợp “mưa” và tập hợp “đêm”.
Bài thơ như
sau:
người
đàn bà sinh ra từ mưa
người đàn
bà sinh ra từ mưa
ăn mùi
hoàng hôn rớt lại của mùa đông trước
ăn nhánh
khô gầy trên môi gió
ăn chồi buồn
vừa nở trong đôi mắt ngập nước
người đàn
bà rướn mình vào bóng tối
thấy đêm
không thể thoát ra ngoài gương mặt bồ hóng cũ kỹ
giống hệt sợi
đau mãi nằm co ro giữa vùng trũng
người đàn
bà vẫn cần mẫn vá lỗ đêm bằng đường chỉ tự do
khép cơn
khóc rỗng giọng sau tiếng thở dài
người đàn
bà giao ước với đêm
chia đều mớ
mưa
chẳng phải
để mua chẳng phải để bán chẳng phải làm quà
chỉ để nhận
diện và gọi tên từng vết thương đang chảy tràn qua nhau
cuộc đời
người đàn bà đan cơn mưa cơn mưa đan người đàn bà
như đốm buồn
này luồn đốm buồn khác
như kẹt đau
này chồng kẹt đau khác
giấc ngủ
nào mới đến đã cạn cuối bấc đêm
Không nghi ngờ
gì: bài thơ này biểu đạt một tấm chân dung tinh thần của con người thi sĩ. Ta
thấy rõ rằng thân thể hay thân xác không phải là đích đến của biểu đạt thơ ca,
bởi ta thấy cái phần nhục thể ấy trở nên không chỉ trừu tượng mà còn rất nhạt
nhòa trong tương quan “tuy một mà hai” với cái tinh thần của chính nó - cuộc
đời người đàn bà đan cơn mưa cơn mưa đan người đàn bà/ như đốm buồn này luồn đốm
buồn khác/ như kẹt đau này chồng kẹt đau khác…
Nhà thơ quả
quyết ngay từ đầu: tinh thần ở vào vị thế cái có trước/đến trước - “mưa”; và
cái thân xác “người đàn bà” là cái “sinh ra từ mưa.”
Một câu hỏi cắc
cớ về “mưa” - vì sao có thể được nhìn nhận như một ví von/biểu trưng cho “tinh
thần”? - sẽ đưa ta lập tức trở lại những cội nguồn truyền thống và dân gian,
nơi “mưa” là một trong mấy gương mặt đại diện cho/đến từ “Trời”, từ thẩm quyền
cao vọi bí ẩn của “Ông Trời.”
Còn nữa: cái
tính nữ, như là “đêm” – tuân theo một quy ước cổ xưa coi “đêm” mang “âm tính” –
chỉ là một quy ước mà thôi và rất có vẻ không hay ho gì lắm nếu cứ mặc nhiên chấp
nhận nó như thân phận tiền định; bởi thi sĩ đã thấy, một cách tỉnh táo, rằng đêm
không thể thoát ra ngoài gương mặt bồ hóng cũ kỹ ; và cái bóng “đêm” ấy
sẽ không thể cản ngăn một người đàn bà vẫn cần mẫn vá lỗ đêm bằng
đường chỉ tự do…
Cho nên, cái
biểu đạt mang tính ẩn dụ then chốt của bài thơ này nằm vào chỗ mà nhà thơ quả
quyết mô tả: người đàn bà giao ước với đêm…
Có thể nói mà
không sợ quá lời, rằng sự khám phá tính ẩn dụ của thân thể và mọi thứ thuộc về
hay liên quan của thân thể chính là đặc tính bao trùm thơ Hoàng Thụy Anh ở tập
này, là chất thơ của những bài thơ này. Mà chị cho thấy niềm say mê chân thành,
dồi dào ý tưởng và tưởng tượng trong việc khai phá chủ đề lớn đó. Và đấy là nỗi
say mê rất có ý thức: chị nhiều lần gắn cảm giác nhục thể với những biểu đạt
hình tượng hóa cho những “ký tự,” “mẫu tự,” “chữ cái”; và ở một đoạn đỉnh điểm,
đã viết rằng:
trên chỏm
đau
những con
chữ của em có thể bị xước bên này hoặc xước bên kia
thậm chí bị
giẫm bẹp rúm
chúng vẫn
tiếp tục chức năng sinh sản
vẫn phơi phới
nhũ hoa dậy thì
quyến rũ
núm đời đêm đêm
(những con chữ của em)
Trong những
tương quan hình ảnh thơ ca như thế, các “con chữ” hay “ký tự” và “chữ cái”
chính là các biểu tượng. Giản dị thôi: “chữ” là một biểu tượng của tri thức, và
do đó, của ý thức, của sự tỉnh táo.
Vào một thời
buổi mà, trong chừng mực nhất định, ý niệm về cái-bản-năng nơi con người
bị lạm dụng bị đề cao bị vuốt ve nuông chiều quá đáng; và còn bị mang khoác lấy
cái áo mỹ miều hào nhoáng của trò ảo thuật hiện đại xưng xưng là biết-tuốt về
con người; thì liều thuốc giải độc phải là ý thức tỉnh táo.
Không mảy may
chữ thừa câu sáo, đây là một tiếng thơ đương đại giàu tưởng tượng, độc đáo và
chân thành một cách quả cảm.
NGUYỄN CHÍ HOAN
Nguồn: Văn Nghệ,
22.7.2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét