Hai ngày trước, tại cuộc Hội thảo Quốc gia “Thời đại Hùng
Vương trong tiến trình lịch sử Việt Nam”, PGS.TS Tống Trung Tín (Chủ tịch Hội
khảo cổ học Việt Nam) vừa đưa ra thông tin ấy như minh chứng điển hình cho tình
trạng “báo động đỏ” trong việc bảo vệ các di tích khảo cổ thuộc giai đoạn lịch
sử đặc biệt này.
Báu vật được trưng bày tại một triển lãm. Ảnh: Thành Đạt
– TTXVN
Gọi là đặc biệt, bởi do khoảng cách quá lớn về thời gian,
cộng cùng sự đan xen của các huyền tích và truyền thuyết, thời đại Hùng Vương
(được cho là từ năm 2879 - 258 trước công nguyên) luôn đặt ra những rào cản cực
lớn trong việc khảo cứu của ngành nghiên cứu sử học. Để thoát khỏi sự trừu tượng,
mơ hồ và đứt quãng từng có, một phần rất lớn của việc khảo cứu ấy chỉ có thể dựa
trên những di chỉ khảo cổ.
Kể từ thời điểm di chỉ khảo cổ học thuộc thời kì tiền
Hùng Vương được phát hiện vào 60 năm trước (1959) tại Phùng Nguyên (Lâm Thao,
Phú Thọ), ngành khảo cổ Việt Nam đã có những bước đi khá cơ bản trong vấn đề
này. Và, từ những di chỉ được phát hiện và khai quật, từng bước, chúng ta đã bước
đầu “giải mã” được một thời đại văn hóa vốn từng chỉ được biết tới qua truyền
thuyết và tín ngưỡng.
Chẳng hạn, từ những phát hiện về nền văn hóa Đông Sơn
trên địa vực miền Bắc, chúng ta đã có giả thiết: Việc Hùng Vương đóng đô ở vùng
lưu vực sông Hồng phần nào liên quan tới việc kiểm soát được nguồn mỏ đồng từ
thượng nguồn dòng sông này để phát triển luyện đồng - ngành kinh tế có tác động
rất mạnh tới các lĩnh vực khác.
Hoặc, qua những mộ táng ở Việt Khê, Làng Cả, Gò De, Làng
Vạc, việc một số người Việt cổ giàu có khi chết được “chia của” (những hiện vật
tùy táng trong mộ) cho thấy xã hội giai đoạn đó đã bắt đầu có sự phân chia giàu
nghèo. Xa hơn, chúng gợi mở về vai trò và sự tồn tại của một tầng lớp những thủ
lĩnh quan trọng tại mô hình nhà nước sơ khai - những người có thể điều hành được
sự sản xuất trong cộng đồng, đặc biệt là ở lĩnh vực luyện đồ kim khí.
Như thế, những di chỉ thời kim khí luôn có vai trò quan
trọng số một - cũng như có tính xác thực cao nhất - để minh chứng về sự tồn tại
của thời kỳ Hùng Vương. Cũng vì hình thành hàng ngàn năm trước, những di chỉ ấy
dễ bị phá hủy nhất và không bao giờ có thể tái sinh.
***
Trở lại câu chuyện của PGS Tống Trung Tín. Sự thực, với
giới khảo cổ, những gì được nhắc tới cũng chính là câu chuyện mà họ vẫn “rát cổ
bỏng họng” hàng năm, trong những cuộc hội thảo chuyên môn: Không chỉ thuộc thời
đại kim khí, những di chỉ khảo cổ tại Việt Nam thường xuyên vẫn bị xâm hại.
Sự thực, Luật Di sản Văn hóa có quy định các địa phương
xây dựng quy hoạch khảo cổ, nghĩa là xác định được hệ thống trên địa bàn, kèm
theo phương án bảo vệ hoặc thăm dò khai quật khi cần thiết. Vậy nhưng, rất nhiều
năm qua, công tác này vẫn được thực hiện rất hạn chế - để rồi ngoài một số di
chỉ tiêu biểu đã được xếp hạng, việc bảo vệ những di chỉ khác luôn là nỗi lo lớn
của giới chuyên môn.
Như một nhận xét của giới khảo cổ quốc tế được PGS Tống
Trung Tín dẫn ra: Đánh mất di tích lịch sử là đánh mất trí nhớ của cả một dân tộc,
chúng ta đừng quên nhu cầu bức thiết mà thực tế đòi hỏi khi nhắc về câu chuyện
của thời đại Hùng Vương.
ANH BẢO
Nguồn: TTVH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét