Thứ Hai, 30 tháng 9, 2019

ĐẠI THI HÀO NGA ALEKSANDR PUSKIN: HẠNH PHÚC KHÔNG BÌNH ỔN

Tình yêu có lẽ đã là một trong những chủ đề chính yếu trong các tác phẩm của “mặt trời thi ca Nga” Aleksandr Puskin (1799-1837), song hành và hòa quyện với nhà thơ suốt cả cuộc đời và sáng tạo. Các nhà nghiên cứu lịch sử và văn học Nga đánh giá Puskin là một người đàn ông đào hoa và nồng nhiệt, dường như không phút nào trong trái tim ông thiếu vắng ngọn lửa yêu đương. Những cảm xúc yêu đương đối với trái tim ông cần thiết như không khí.
Aleksandr Puskin và Natalia Goncharova

Những mơ mộng thanh xuân

Trong cuộc sống của đại thi hào Nga, phụ nữ chiếm một vị trí vô cùng to lớn. Nhà thơ tiếp nhận mỗi một cơn si tình của mình như một tình yêu duy nhất có thể có được trong đời, say đắm, trăn trở, đớn đau, viết thơ dâng tặng ý trung nhân rồi – như vẫn thường xuyên xảy ra – bỗng dưng cụt hứng và nguội lạnh tức thì… Năm 1829, trong tập album kỷ niệm của chị em nhà Ushakov, Puskin đã ghi lại danh sách hài hước những mỹ nhân mà ông từng si mê trong những khoảnh khắc khác nhau của cuộc đời mình, trong đó có 37 cái tên (nên nhớ rằng Puskin đã mất vì đấu súng năm 38 tuổi!). Cho tới hôm nay vẫn lưu truyền một lời thổ lộ của Puskin trong lá thư gửi mỹ nhân V.F. Vyazemskaya năm 1830: “Hôn lễ của tôi với Natalia (và cũng phải rằng đó là tình yêu thứ 130 của tôi) đã được quyết định”.

Các tài liệu để lại cho biết, mối tình đầu của Puskin là Yekaterina Pavlovna Bakunina (1795-1869), chị gái của một người bạn học trong trường Lyceum Hoàng gia với Puskin. Yekaterina là con gái của một cận thần của Sa hoàng, có thời gian từng được giao quản lý Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Chính bà đã là cảm hứng để đại thi hào Nga từ năm 1815 tới 1825 viết ra nhiều tuyệt tác lãng mạn…

Sau khi tốt nghiệm Lyceum Hoàng gia năm 1817, Puskin đã phải lòng đắm đuối Evdokia Ivanovna Golitsyna (1780-1850), người phụ nữ hơn đại thi hào tới 20 tuổi. Năm 1816, trở về từ châu Âu, nữ công tước đã mở một salon văn học tại St. Peterburg, thu hút rất đông tao nhân mặc khách ở “kinh đô phương Bắc”. Thiên hạ gọi là “nữ hoàng bóng đêm” vì bà có thói quen chỉ tiếp khách tới salon sau 10 giờ đêm. Puskin với tư cách một tài năng trẻ đã tìm tới salon của nữ công tước Golitsyna và mau chóng bị bà chủ hớp hồn. Nữ công tước đã không thể nào không để ý tới người hâm mộ tài hoa và trẻ trung này. Bà đã tiếp nhận tình yêu của Puskin với một thái độ hơi hờ hững và bình thản quen thuộc của mình. Nikolai Karamzin (1766-1826) đã viết về về dục vọng cháy bỏng này của đại thi hào: “Nhà thơ Puskin của chúng ta đã đã chết mê chết mệt Pifia Golitsyna và hiện nay tối nào cũng tới nhà của bà: nói dối vì yêu, giận dữ vì yêu, chỉ chưa viết thơ vì yêu thôi”…

Năm 1820, khi bị Sa hoàng đày xuống phương Nam, Puskin đã phải lòng Maria (1804 hoặc 1805-1863), con gái của tướng Nikolai Rayevsky, người sau này sẽ là phu nhân của công tước Sergei Volkonsky. Về sau, Puskin đã tặng mỹ nhân này nhiều bài thơ nổi tiếng, như “Trên những quả đồi Gruzia sương phủ”, “Đài phun nước ở Bakhtsisarai”… Các nhà nghiên cứu văn học cho rằng, Puskin cũng đã tặng Maria (Rayevskaya) Volkonskaya trường ca “Poltava” vì rất khâm phục việc bà từng theo người chồng đã bị Sa hoàng kết án lưu đày 20 năm đi tới Siberi…

Trong những năm 1823-1824, Puskin đã phải lòng mê mệt Yelizaveta Ksavelievna Vorontsova (1792-1880), cô con gái út của nhà tài phiệt người Ba Lan Ksaveri Bagnitsky, cháu gái của bá tước Potemkim. Nếu tin theo những bài thơ của Puskin thì dường như nhà thơ đã được yêu đáp lại… Yelizaveta Vorontsova đã tặng Puskin bức chân dung trong khung vàng của mình và một chiếc nhẫn làm bùa hộ mệnh, cuối đời Puskin vẫn luôn mang theo mình. Trong rất nhiều năm, đại thi hào đã vẽ chân dung Vorontsova bên lề các trang bản thảo thơ của mình. Varontsova cho tới cuối cuộc đời dài lâu của mình vẫn ghi nhớ những kỷ niệm ấm áp về Puskin và hàng ngày đọc đi đọc lại các tác phẩm của ông…

Thơ hay nhưng tình không đậm

Năm 1825, Puskin đã tặng bài thơ tình nổi tiếng “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu cho Anna Petrovna Kern (1800-1879). Anna sinh ra ở Oriol, họ thời con gái của bà là Poltoratskaya, cha là một nhà quý tộc, từng có nhiều mối quan hệ với cung đình. Ông nội bà từng chỉ huy dàn hợp xướng cung đình từ thời nữ hoàng Elizavet, ông ngoại từng là thống đốc tỉnh Oriol …

Thuở nhỏ, Anna sống cùng cha mẹ trong các điền trang do ông ngoại để lại ở thành phố Oriol rồi thành phố Dubny thuộc tỉnh Poltava. Đoạn đời đầu tiên của Anna cũng giống như rất nhiều mỹ nữ quý tộc ở nước Nga phong kiến. Chớm bước vào tuổi thanh xuân, bà đã được gả cho một người ở cỡ tuổi như cha bà, ông tướng Ermolai Kern, xuất thân từ một dòng họ quý tộc gốc mãi bên Anh quốc. Khi ấy, Anna mới 17 tuổi, còn tướng quân Ermolai đã 52 tuổi. Cuộc hôn nhân “lệch đũa” theo kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đã khiến bà ngay từ đầu đã ác cảm với chồng. Anna ghi trong nhật ký: “Không thể nào yêu ông ấy được – tôi còn không được diễm phúc để có thể tôn trọng ông ấy nữa – tôi gần như là căm thù ông ấy”. Không yêu chồng nên bà cũng cảm thấy nhạt nhẽo với chính các cô con gái mà bà sinh ra với chồng. Hai công nương của gia đình tướng Ermolai Kern vì thế đều được gửi vào trường học nội trú trong Điện Smolnyi ngay từ tấm bé.

Năm 1819, hai năm sau khi xuất giá tòng phu, lần đầu tiên gia đình Kern lên chơi kinh đô Peterburg và ở tại nhà một bà dì của Anna. Tại đây, lần đầu tiên “thiên thần sắc đẹp trắng trong” được nhìn thấy một thanh niên vóc người nhỏ nhắn, trông khá kỳ dị, mà thiên hạ đồn rằng làm thơ rất hay. Khi đó, Anna chưa có ấn tượng đặc biệt gì về Puskin. Ở thời đó, tại nước Nga cũng có phong trào người người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Hơn nữa, ngoại hình không mấy trang nhã của Puskin khiến thi nhân ngay từ đầu đã không được mỹ nhân ưa thích. Chỉ vài năm sau đó, khi thiếu phụ Anna bùng cháy cảm xúc yêu đương với điền chủ Rodziakov, người cũng tràn trề thi hứng nên đã giới thiệu với bà những bài thơ của Puskin, thì Anna mới bắt đầu để ý tới “vầng mặt trời thi ca Nga”. Và rồi số phận đã giúp cho bà gặp lại Puskin.

Tháng 6/1825, trên đường tới Riga (nay là thủ đô Latvia), Anna Kern rẽ vào thăm trang trại của bà dì Prasovia Osipova tại làng Trigorskoye thuộc tỉnh Pskov. Lúc này, Puskin đang chịu cảnh lưu đày ở gần khu trang trại đó và thi nhân cũng là người khách thường xuyên của gia tộc Osipov trong những cuộc vui đầy lãng mạn cùng giới trẻ. Anna đã ở đó ba tuần. Vừa gặp mỹ nhân, Puskin, với bản tính dễ yêu truyền thống của các thi nhân, đã phải lòng ngay. Và tuyệt tác “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu”… ra đời.

Thế nhưng, có lẽ trong đời thực Anna đã không chỉ làm thi nhân xúc động bởi cảm giác yêu đương ngây ngất như trong thơ mà còn làm Puskin “khó ở” bởi sự giăng hoa “vốn sẵn tính giời” của bà. Đến mức, hai ngày sau khi Anna đã rời khỏi Trigorskoye, Puskin đã viết trong thư gửi cho một người bạn: “Đêm nào tôi cũng đi ra vườn và thì thào: nàng đã từng ở chính nơi này – viên đá mà nàng vấp chân phải giờ đang được đặt trên bàn tôi cạnh cành hướng nhật quỳ đã héo, tôi đang viết rất nhiều thơ – mọi sự, nếu bạn muốn nghĩ thì có thể cho là tình yêu, nhưng tôi thề là không phải thế. Nếu tôi yêu thực hẳn hôm chủ nhật vừa rồi tôi đã phát rồ lên vì ghen tuông, nhưng thực ra tôi chỉ cảm thấy ngán ngẩm”…

Còn trong lá thư gửi cho chính Anna Kern vào giữa tháng 8-1825 (chưa đầy hai tháng sau), Puskin đã nặng lời châm biếm: “Ta đọc đi đọc lại lá thư của nàng và thốt lên: Yêu thương ơi! Tuyệt vời ơi! Thiên thần ơi!.. Nhưng rồi lại nói: Tệ quá! Xin lỗi nhé, người dịu dàng tuyệt vời ơi! Không có gì hoài nghi về việc nàng là thiên thần nhưng có điều đôi khi nàng lại không đủ tỉnh táo… Nàng nghĩ rằng tôi không hiểu tính cách của nàng. Nhưng tôi thì cần gì mà phải quan tâm đến nó, tôi cần gì đến nó – chẳng lẽ những thiếu phụ đẹp lại cần phải có tính cách? Quan trọng nhất là môi là mắt, là chân là tay”… Có lẽ nàng đã phải rất cay đắng khi đọc những dòng như thế từ người đã nâng nàng lên đỉnh cao mơ mộng bằng tuyệt tác “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu”… Không ngẫu nhiên mà sau này chính Anna Kern đã phải tâm sự: “Tôi nghĩ rằng thực sự Puskin chỉ yêu có hai người phụ nữ: đó là nhũ mẫu và nàng thơ của ông”. Tuy thế, giữa hai người vẫn duy trì được những mối liên hệ qua thư từ. Puskin đã viết gửi Anna những dòng đùa vui: “Vĩnh biệt nhé, thiên thần. Tôi hóa dại gục dưới chân em đó”… Rồi thi nhân còn hỏi đùa Anna: “Thế bệnh thống phong của chồng nàng ra sao rồi?”. Và thi nhân cũng đùa cợt khuyên người đẹp nên bỏ phu quân đã ngán để đi theo tình nhân của các nàng thơ…
Anna Kern

Cuối cùng vẫn phải hôn nhân

Tháng 5/1827, Puskin trở về St. Peterburg. Và đại thi hào đã phải lòng say đắm Anna Alekseyevna Olenina (1807-1888), con gái của Chủ tịch Viện Hàn lâm Mỹ thuật St. Peterburg, Aleksei Nikolaievich Olenin (1763-1843). Thậm chí Pusksin đã ngỏ lời cầu hôn với gia đình Olenin nhưng đã bị từ chối vì mỹ nữ Anna coi ông không phải là “một món hời”! Tuy nhiên, đại thi hào đã không lấy đó làm điều và năm 1829 đã tặng cho Anna Olenina một tuyệt tác: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể”…

Tháng 12/1828, Puskin gặp Natalia Goncharova, người mà đại thi hào sẽ lấy làm vợ. Về sau, Puskin đã viết về cuộc gặp ấy như sau: “Khi tôi nhìn thấy nàng lần đầu tiên, tôi đã yêu nàng ngay và tôi đã cảm thấy chóng mặt”…

Natalia Goncharova sinh vào tháng 8-1812 tại điền trang Karia thuộc tỉnh Tambov, nơi gia đình nàng sơ tán về từ Moskva vì cuộc xâm lăng Nga của hoàng đế Pháp Napoleon. Mẹ nàng, cũng nổi tiếng là một tuyệt thế giai nhân, từng làm thị nữ trong triều. Cha nàng là con của một chủ nhà máy dệt vải phíp tại tỉnh Kaluga…

Natalia là người con thứ sáu trong gia đình, còn bé, được ông nội yêu chiều, điền trang mênh mông với nhiều hồ nước có thiên nga bơi lội, những con búp bê sang trọng và những bộ y phục được ông nội đặt may từ Paris. Chính ông nội đã rất không hài lòng khi cha mẹ đưa nàng lên Moskva ở phố Bolshaya Nikintinskaya mỗi mùa đông… Thế nhưng, nếu ông nội hiền từ và dễ tính bao nhiêu thì người mẹ của mỹ nhân lại càng nghiêm khắc bấy nhiêu. Bà là người có tính quyết đoán và độc tài. Khi những người xung quanh trầm trồ trước vẻ đẹp và sự hoàn hảo đầy chất cổ điển trên gương mặt xinh xắn của cô con gái mới lên 8 tuổi, bà chỉ làu bàu: “Con bé nó quá lành, không bao giờ làm gì sai quấy cả. Xưa nay, hồ nước càng lặng càng dễ có ma”… Bà mẹ hay tét các cô con gái, hay bé xé ra to và có lần giận dữ đã đập vỡ cả con búp bê bằng sứ mà ông nội đã mua từ Paris về cho Natalia. Cô bé ngoan lành không dám tỏ ra đau đớn… Đôi mắt cô rất hay trào lệ nhưng trong nhà, mẹ luôn cấm các con khóc, khác đi sẽ bị phạt nặng. Người mẹ duy trì một chế độ giáo dục rất nghiệt ngã với các cô con gái vốn không thế thì cũng đã rất sợ bà rồi.

Sống bên cạnh người cha cũng không phải là việc dễ chịu. Do một lần bị ngã ngựa nên ông đã bị suy giảm trí nhớ và chỉ trong những khoảnh khắc hiếm hoi mới lại tỏ ra tốt bụng, vui tính, như trước khi gặp nạn.

Tất cả những sự việc trên không thể không gây ảnh hưởng tới tính cách của Natalia. Nàng trở nên kiệm lời, thu mình lại và “quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật”. Sau này, những nét tính cách đó của Natalia Goncharova bị giới thượng lưu đánh giá là dấu hiệu của sự “thiển cận”. Thực ra, tất cả những người con trong gia đình Goncharov đều được hưởng một nền giáo dục hoàn hảo.

Gia đình Goncharov rất yêu thơ Puskin, thuộc lòng nhiều bài của chàng, thậm chí còn chép cả thơ chàng vào các tập album. Thế nhưng, có lẽ thời thơ ấu, Natalia không bao giờ nghĩ rằng, khi lớn lên, nàng lại gắn bó số phận mình với Puskin một cách chặt chẽ và bi thiết đến thế…

Ở tuổi 15, Natalia Goncharova đã được coi như là đệ nhất mỹ nhân tại các dạ hội thượng lưu ở Moskva. Nàng xuất hiện ở đâu cũng có vô số những trang nam tử hâm mộ tụ quanh.

Nàng gặp Puskin lần đầu tại vũ hội tổ chức tại nhà vũ sư Yogel trên đại lộ Tviorsky mùa đông năm 1828, khi đó, nàng mới 16 tuổi, còn Puskin đã ở tuổi 29. Đối với thời đó, nàng là một thiếu nữ có vóc dáng khá cao – 1,77 m (Puskin thấp hơn nàng 9 cm), ngực tròn căng, thắt đáy lưng ong, da mướt như nhung, tóc bồng như lụa. Là một tuyệt đỉnh thi sĩ, luôn được các mỹ nhân các lứa tuổi mến mộ, si mê, lần đầu tiên Puskin cảm thấy tim đập mạnh, chân run rẩy khi nhìn thấy Natalia. Và nhà thơ nhờ người mai mối để cầu hôn. Tuy nhiên, Puskin đã bị gia đình nàng từ chối. Bà mẹ vợ tương lai không thích những tai tiếng của nhà thơ trên tình trường và sự thiếu tin cậy về mặt chính trị trong quan điểm của Puskin đối với triều đình. Natalia viết thư cho người ông nội yêu kính: “Cháu rất buồn khi biết những nhận xét không hay ho về anh ấy mà mọi người đã nói với ông và cháu xin ông hãy vì tình yêu dành cho cháu không nên tin vào những nhận xét ấy, vì đó không phải cái gì khác ngoài sự vu cáo thấp kém”.

Đau buồn vì bị cự tuyệt, Puskin tìm quên lãng bằng cách đi về xứ Cápcadơ. Và như một thi nhân đích thực, đã yêu thì rất hết lòng, ông đã viết tặng Natalia Goncharova nhiều tuyệt phẩm thi ca, như “Đức mẹ”, “Chàng và ông”… Để tăng thêm uy tín trước ông bà nhạc tương lai, nhà thơ cũng đã cố gắng cải thiện tình hình tài chính của mình. Và tới đầu mùa xuân năm 1830, Puskin bất ngờ qua một người quen tới từ Moskva nhận được lời chào từ gia đình Goncharov. Nhìn thấy trong đó lời mời kín đáo quay trở lại, Puskin đã về Moskva như bay trên đôi cánh của thiên thần tình yêu. Và ngay lập tức nhà thơ lại thêm một lần ngỏ lời cầu hôn và đã được chấp thuận. Lễ thành hôn của đôi uyên ương đã được cử hành ngày 18-2-1831 tại nhà thờ Phục sinh ở phố Bolshaia Nikitinskaya. Thật tiếc là trong buổi lễ này, Puskin đã không may vướng phải cái bục để cây thánh giá và tập Kinh Thánh, làm chúng rơi xuống đất. Khi cô dâu chú rể trao nhẫn cho nhau, một cái nhẫn đã bị rớt xuống đất. Và khi buổi lễ chưa kết thúc, cây nến thành hôn đã bị tắt… Puskin đã tái mặt đi và thốt lên: “Thôi rồi, toàn những điềm gở!”

Dù sao thì nhà thơ cũng đã vô cùng hạnh phúc khi đưa về nhà (lần đầu tiên ông được có nhà riêng) một người vợ trẻ xinh như mộng. Không lâu sau đám cưới, Puskin đã viết: “Tôi đã là người đàn ông có gia đình và hạnh phúc, tôi chỉ ước mơ rằng trong cuộc đời tôi sẽ không có gì thay đổi nữa vì không thể nào mơ ước được điều gì tuyệt vời hơn”. Trong giai đoạn đầu của cuộc sống vợ chồng, hai người đã cực kỳ hạnh phúc cùng nhau, dù đôi lúc cũng phải chịu cảnh túng thiếu. Bốn đứa con đã được lần lượt sinh ra… Mùa thu năm 1833, gia đình Puskin chuyển về St. Peterburg sống. Tình trạng liên tục có mang của Natalia cũng không cản trở nhiều những sinh hoạt thượng lưu nhộn nhịp. Nhờ chồng được phong một chức danh nhỏ trong cung đình năm 1834 mà Natalia được tiếp cận với hoàng gia. Điều này đã khiến nàng cảm thấy mãn nguyện hơn, bù đắp cho những cấn cá rụt rè nảy sinh từ khi nàng còn phải sống với cha mẹ mình. Nàng cũng cảm thấy hãnh diện khi ngay cả Sa hoàng Nikolai I cũng tỏ ra say mê nhan sắc của nàng…

Không thể nói rằng Puskin thích thú với những niềm vui mới của vợ mình. Ông đã muốn về quê ở để có thể sáng tác tốt hơn, nhưng thật khó làm việc này. Nếu vợ của thi nhân không có mặt tại buổi vũ hội của Sa Hoàng, chồng nàng ngay lập tức sẽ bị khiển trách nặng nề. Nhan sắc cũng như những cử chỉ làm duyên trước những người hâm mộ mà Natalia không bao giờ coi là điều quá đáng đã làm dấy lên những đồn đại. Puskin đã nhận được vô số những lá thư nặc danh “kể tội” vợ ông này nọ trăng hoa. Tuy nhiên, thi nhân vẫn yêu vợ mình hết mực. Trong con mắt của Puskin, Natalia vẫn luôn là biểu tượng của sự thuần khiết tột cùng nên ông không bao giờ muốn nghĩ điều gì đó xấu về nàng, dù thiên hạ có nói ngả nói nghiêng bao nhiêu đi nữa.

Cũng phải nói rằng, dù rất thích các sinh hoạt thượng lưu, Natalia vẫn là một người vợ tận tụy với chồng con, luôn cố gắng giúp đỡ nhà thơ trong mọi việc.

Năm 1834, tình cờ trong một vũ hội, Natalia gặp viên sĩ quan kị binh người Pháp 22 tuổi Georges d’Anthes. Những săn đón lịch lãm và nhiệt tình của d’Anthes đã khiến nàng có phần hãnh diện và nàng trung thực kể lại chuyện này với chồng. Thực ra, không phải lúc nào cũng thích thú với những săn đón đó, thậm chí nàng còn có lúc cảm thấy khó chịu khi d’Anthes cứ sấn sổ tới gần nàng… Nhìn chung, nàng chỉ đơn giản coi đó là một trò chơi thượng lưu nên không quá nặng lòng với nó. Thế nhưng, miệng lưỡi thiên hạ trong chốn thượng lưu cực kỳ nghiệt ngã. Ngày 4/11/1836, nhà thơ nhận được qua đường bưu điện một lá thư nặc danh có nội dung vu cáo, xúc phạm tới danh dự của ông và Natalia, cho rằng ông đã bị vợ cắm sừng. Chuyện gì xảy ra tiếp theo, mọi người đều rõ. Không còn chỗ để lùi, Puskin đã thách đấu súng với d’Anthes. Nam tước Heeckeren (cha nuôi của d’Anthes) đã cố gắng để làm lui lại thời hạn đấu súng và Puskin thoạt tiên cũng đồng ý như vậy. Thế rồi lại có tin d’Anthes định cưới chị gái của Natalia là Ekaterina Goncharova làm vợ. Puskin cho rằng, d’Anthes muốn lảng tránh đấu súng nên đã không nhượng bộ nữa.

Ngày 27/1/1837, trên dòng Sông Đen, Puskin đã bị d’Anthes bắn trọng thương. Phút lâm chung, ông đã viết cho người vợ đang bấn loạn vì đau khổ: “Anh hạnh phúc làm sao. Anh còn sống và em đang ở gần bên anh. Em hãy bình tâm. Em không có lỗi. Anh biết rằng em không có lỗi”.
Sau khi Puskin qua đời, người góa phụ ở tuổi 24 đã sống quằn quại trong tuyệt vọng, gày đi, xanh xao đi. Ánh mắt từng rạng ngời của nàng đã trở nên mờ đục. Nàng cứ mặc hoài những bộ váy áo đen tuyền. Nàng tập hợp toàn bộ các cuốn sách của chồng nhưng không thể nào đọc chúng: “Đọc anh ấy cũng giống như nghe thấy giọng nói của anh ấy, thực nặng nề”…

Natalia đã về quê ở hai năm liền theo đúng lời trăng trối của chồng: “Em hãy về quê. Hãy để tang anh hai năm rồi đi bước nữa, nhưng phải lấy một người đàn ông lương thiện”. Hết tang, Natalia quay trở lại St. Peterburg, nhưng hoàn toàn từ bỏ các sinh hoạt thượng lưu. Hàng năm, cứ đầu tháng giêng, tháng ra đi của chồng nàng, Natalia lại tự cách ly mình, ăn kiêng để hồi tưởng lại quá khứ.

Năm 1843, Natalia được giới thiệu làm quen với một người bạn của anh trai mình, tướng độc thân Lanskoi, 45 tuổi. Tới ngày 16/7/1844 đã diễn ra đám cưới giữa hai người.

Ông Lanskoi coi những người con của vợ đã có với Puskin như con đẻ của chính mình. Ông cũng có thêm với Natalia ba cô con gái nữa… Natalia đã nói về người chồng thứ hai của mình: “Một cái đầu nóng bỏng, một trái tim nhân hậu tột cùng – cũng giống hệt như Puskin”.

Có lần Natalia viết cho chồng: “Thiên chức của em là làm giám đốc trại trẻ. Chúa đã cho em những đứa trẻ từ khắp các bên và điều này không hề làm em cảm thấy phiền nhiễu, niềm vui của lũ trẻ cũng khiến em vui”. Và dẫu sau này nàng lại tham dự các vũ hội nhưng nơi quý giá và thân thương nhất đối với Natalia vẫn là gia đình nàng.

Nàng đã sống như thế cho tới phút trút hơi thở cuối cùng. Mùa thu năm 1863, Natalia bị cảm lạnh trong lễ rửa tội cho cháu. Và ngày 26/11/1863, nàng qua đời vì bị viêm phổi nặng. Trong phút lâm chung, nàng đã thầm thì: “Puskin, anh sẽ sống mãi!” Tuy nhiên, trên tấm bia mộ của nàng chỉ khắc họ Lanskaya của người chồng thứ hai.

Ai biết được, nàng có ngậm cười nơi chín suối hay không…

LÂM NGỌC ANH
Nguồn: Tinh Hoa Việt
XIN XEM THÊM:

·         BỆNH Ở LÀNG VĂN
·         TRÍ NHỚ CỦA DÂN TỘC
·         TÔN NỊNH ĐẠI SUY
·         TIẾP THỊ BẢN THÂN
·         NỖI OAN CỦA MÔN VĂN
·         QUANH NHÀ MÁY RẠNG ĐÔNG


LÃNG PHÍ BỜ SÔNG

Tôi ra Huế đi dọc bờ sông Hương xanh mát, ra Hội An dạo bên sông Hoài, bỗng thương Sài Gòn đến nao lòng.

Bờ sông, hay mép nước, là không gian đặc biệt đầy năng động của đô thị. Vì là môi trường "rìa", nó là nơi giao cắt, đan xen của nhiều cộng đồng và nhiều sắp đặt khác nhau, tạo ra sự phức hợp hấp dẫn. Từ xa xưa, nhân loại đã tận dụng bờ sông cho nhiều mục đích: hành lang thương mại, trung tâm mua bán, những công trình cảng vận, nhà máy công nghiệp nặng, rồi đến khu phức hợp đô thị. Nhưng quan trọng nhất, đó là mảng xanh kết hợp mặt nước công cộng, nơi con người gặp gỡ và giao lưu.

Đô thị hiện đại luôn cần không gian bờ nước để tạo cảm hứng, niềm vui và sự thoải mái cho mọi cư dân sống, làm việc và vui chơi. Không gian đó cần thu hút về thị giác, kết nối với xung quanh và dễ tiếp cận từ cả trên bộ lẫn mặt nước, bất kể đêm ngày. Hiếm có thành phố nổi tiếng nào không có một dòng sông lịch sử và văn hóa của riêng nó, nơi cư dân và khách du lịch luôn tìm tới.

Vậy mà Sài Gòn quá nghèo nàn về không gian công cộng ven sông. Suốt lịch sử hơn 300 năm của mình, một cách rất thực dụng, người ta đã phân công năng rõ ràng: bờ sông Sài Gòn cho công trình cảng vận, bờ kênh Tàu Hủ - Bến Nghé để buôn bán với miền Tây, còn những dòng kênh tự nhiên khác như rạch Thị Nghè dành cho giao thông vận tải nhỏ. Tất nhiên, trong số chúng có những bờ sông thơ mộng đã đi vào phim ảnh, như chợ hoa Bến Bình Đông, bến Nhà Rồng dù nay đã mai một. Chúng ta hầu như bỏ quên những không gian bờ nước quý giá - nơi nâng đỡ tinh thần thị dân.

Rạch Thị Nghè, rạch Bến Nghé may mắn được ưu tiên cải tạo, nhưng còn rất nhiều con rạch khác đang oằn mình gánh nước thải, rác và bị lấn lấp âm thầm. Rất nhiều đoạn sông đẹp bị tư nhân hóa, đa số dân thường không được quyền tiếp cận. Xót xa nhất, dãy nhà cổ dọc theo đường Khánh Hội và Võ Văn Kiệt, những di sản gợi nhớ khung cảnh trên bến dưới thuyền của Sài Gòn xưa đang dần biến mất mà không có cách gì giữ lại.

Năm 2007, mới tập tễnh học việc thiết kế tại Nikken Sekkei, tôi may mắn được tham gia vào cuộc thi quốc tế "Thiết kế đô thị cho khu trung tâm hiện hữu và một phần bờ sông Sài Gòn" trên 930 hecta do Sở Quy hoạch - Kiến trúc chủ trì. Khảo sát thực địa xong, về đến văn phòng, trải tấm bản đồ lớn lên bàn, ông chủ nhiệm thiết kế người Nhật đã vạch một đường màu xanh rất đậm, kéo từ Tân Cảng xuống cảng Khánh Hội: "Chúng ta sẽ biến không gian bờ sông này thành một không gian công cộng phong phú, hấp dẫn và liên tục cho người Sài Gòn". Khi những công trình cảng vận dời đi, ông tin rằng sẽ có đủ quỹ đất để đáp ứng nhu cầu xây dựng - phát triển và nhu cầu không gian thư giãn - vui chơi cho cư dân thành phố. Tôi được giao tìm những ví dụ về thiết kế - phát triển không gian ven sông khắp thế giới và vẽ những mặt cắt thể hiện ý tưởng quy hoạch cho bờ sông Sài Gòn.

Nikken Sekkei thắng cuộc thi năm ấy, được chính quyền thành phố chọn là tư vấn để lập "Quy hoạch phân khu khu trung tâm hiện hữu TP HCM 930 hecta" và xây dựng quy chế quản lý không gian, kiến trúc đô thị khu vực này. Quy hoạch phân khu đã chỉ rõ khu bờ tây sông Sài Gòn "là khu vực phát triển mới đa chức năng, hình thành dải công viên văn hóa, giải trí và không gian công cộng dọc bờ sông từ cầu Sài Gòn đến cầu Tân Thuận", "đảm bảo sự tiếp cận của người dân thành phố".

Tôi háo hức hình dung mình có thể đi dạo, chạy bộ suốt hơn 5 km từ Khánh Hội lên Tân Cảng, thưởng thức những không gian cá tính khác nhau của Sài Gòn. Nhưng đến tận bây giờ, ở năm 2019, sau khi Tân Cảng và quân cảng Ba Son dời đi, thay vào đó lại là hàng chục tháp căn hộ cao cấp.

Những người làm quy hoạch như tôi vẫn không hiểu vì sao, mặc dù đã có quy hoạch, quy chế ở trên, Thành phố vẫn để cho ngày càng nhiều những bờ nước chỉ phục vụ số ít như vậy mọc lên. Bờ sông bị chẻ nhỏ cho nhiều dự án, mất tính kết nối - liên tục, và bị cô lập với phần còn lại của thành phố. Chúng ta vì đâu đã lãng phí, đánh mất cơ hội nâng cao chất lượng đô thị, cải tạo bộ mặt của Sài Gòn khi để tuột những không gian công cộng ven sông cho những dự án không phục vụ số đông?

Nhưng thà chậm còn hơn không làm gì. Vẫn còn khu cảng Khánh Hội để chúng ta sửa chữa sai lầm, còn rất nhiều không gian ven sông cần được "cứu" bằng quy hoạch để hình thành nơi chốn lành mạnh cho mọi người. Bên cạnh đó, chính quyền có thể ra cơ chế vừa bắt buộc, vừa ưu đãi nhà đầu tư tại những lô đất ven sông để họ có thể vừa tạo cảnh quan sông trong dự án của mình với yêu cầu không "ngăn cản" người dân tiếp cận chúng.

Nhà đầu tư được tự do đề xuất phương án quy hoạch, chỉ cần đảm bảo tiêu chí có không gian công cộng ven sông phục vụ cộng đồng. Đáp lại, chính quyền sẽ cho phép họ được tăng thêm hệ số sử dụng đất nhằm cân đối bài toán kinh doanh. Bảo vệ, tái thiết bờ sông là việc cần ưu tiên để Sài Gòn đáng sống hơn.

LÊ NAM
Nguồn: Vnex

XIN XEM THÊM:

·         BỆNH Ở LÀNG VĂN
·         TRÍ NHỚ CỦA DÂN TỘC
·         TÔN NỊNH ĐẠI SUY
·         TIẾP THỊ BẢN THÂN
·         NỖI OAN CỦA MÔN VĂN
·         QUANH NHÀ MÁY RẠNG ĐÔNG





BỆNH Ở LÀNG VĂN

Câu ngạn ngữ “Văn mình vợ người” có ngầm ý phê bình thái độ chủ quan của người viết văn.

1. Không có giới nào thuần nhất cả. Cũng không giới nào là hoàn toàn tinh túy. Còn đã gọi là bệnh thì phải ở những kẻ ốm yếu, chứ những văn nghệ sĩ đích thực thì đâu có. Những kẻ ốm yếu, đấy là những văn nghệ sĩ rởm, hoặc họ đã từng làm văn nghệ sĩ thật nhưng bị biến chất. Bệnh của những người này thì có nhiều, nay ta chỉ xem một vài bệnh tiêu biểu.

Bệnh vĩ cuồng. Những văn nghệ sĩ đích thực luôn luôn thấy mình cũng là một người bình thường, họ làm mọi nhiệm vụ của một công dân, làm hết trách nhiệm của một người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. "Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu" (Xuân Diệu). Chế Lan Viên thì ân hận dằn vặt về những tháng ngày tách rời đất nước, nhân dân: "Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết/ Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày". Nhà văn Tô Hoài còn tham gia làm cả tổ trưởng dân phố... Nhưng những văn nghệ sĩ bị bệnh vĩ cuồng thì luôn cho mình là người vĩ đại, phải được sắp xếp vào những vị trí quan trọng, làm những công việc vĩ đại, họ thường so sánh mình với những vĩ nhân trong lịch sử, thậm chí còn coi thường cả những thiên tài. Đã có một thời, có một số học viên của Trường Viết văn Nguyễn Du bị mọi người coi là "Trước khi vào trường thì không biết Nguyễn Du là ai. Đến khi ra trường thì không coi Nguyễn Du ra gì". Có cả những cây bút nữ còn vô danh mà lại so sánh mình với thi sĩ Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương bất tử, không phải vào lúc trà dư tửu hậu ở trong phòng với một vài đệ tử, mà là giữa thanh thiên bạch nhật trên phương tiện truyền thông có đông người chứng kiến. Họ không biết rằng, vĩ đại như văn hào Lỗ Tấn của Trung Quốc, khi có người trách sao anh không tập trung viết những tác phẩm lớn để đời, thì ông tự than trách rằng: "Trong khi máu đồng bào hàng ngày vẫn đổ... thế mà tôi chỉ có "Mà thôi" (tên tập tản văn của ông) mà thôi!".

Bệnh mục hạ vô nhân. Bệnh này thường đi liền với bệnh vĩ cuồng. Dưới con mắt của người bị bệnh này thì không có ai đáng chú ý cả. Như một danh ngôn nước ngoài đã chỉ ra, nếu anh nhìn mọi người với con mắt của người hầu phòng thì chỉ thấy những điều nhỏ bé của mọi người, chứ không thể thấy những điều vĩ đại ở họ. Cả một nền tiểu thuyết của chúng ta mấy chục năm qua, trong đó không ít những đỉnh cao đã được khẳng định, thế mà có người lại bảo rằng chưa có cuốn nào đáng được gọi là tiểu thuyết mà chung qui chỉ là… chuyện kể. Có nhà văn thực ra thì cũng chưa có tác phẩm nào thật đáng chú ý, tuy không còn là vô danh nhưng cũng lúc ẩn lúc hiện, lại đánh giá sự nghiệp, những tác phẩm nổi tiếng về các thể loại của nhà văn Nguyễn Đình Thi một cách rất bất nhã. Rồi những tác giả viết văn và làm thơ trẻ hiện nay, một số người chỉ nhìn thấy mình, tự cho mình là nhất, ngoài ra không có ai cả. Hẳn là họ thuở nhỏ chưa từng được mẹ ru cho nghe những lời thơ ngọt ngào mà sâu lắng của thi sĩ Tố Hữu:

Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một bông lúa chín
chẳng nên mùa vàng
Một người đâu phải nhân gian...

Ở một số bài viết, tôi đã có dịp đề cập đến bệnh ảo tưởng của giới văn nghệ sĩ. Rồi cũng có người thường nhắc đến bệnh đố kỵ trong giới cầm bút. Nhưng đã là bệnh thì nó không phải là đại diện của chủ thể ấy, nó là những thứ bám vào một cách không được phép mà thôi. Vì thế, cũng chả nên phanh phui thêm làm gì, chỉ nhắc vừa đủ để mà phòng tránh.

Như những cơ thể khỏe mạnh, bệnh tật không thể xâm phạm được, những văn nghệ sĩ đích thực, có bản lĩnh và tài năng thì những bệnh như trên sao có thể đến gần. Nhà thơ Nguyễn Khuyến rất thích quây quần vui vẻ với những nông dân trong thôn xóm: "Chú Đáo bên làng lên với tớ/ Ông Từ xóm chợ lại cùng ta". Còn nhà thơ Tố Hữu lúc đó là Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông về Bến Tre viếng mộ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, một số trẻ em nhìn thấy ông reo lên: "A! Nhà thơ đến thăm nhà thơ" thì ông trả lời tự nhiên rằng: "Không phải là nhà thơ đến thăm nhà thơ, mà là cháu đến thăm ông. Ông và cháu cùng nhau đánh giặc, bây giờ hết giặc rồi, cháu đến thăm ông". Điều đó cho thấy văn chương nghệ thuật rất nhỏ bé trước cuộc đời, có gì mà phải cuồng, cao đạo.

2. Tôi không nói về cặp phạm trù chủ quan và khách quan. Tôi chỉ nói về thái độ chủ quan của con người trong cuộc sống. Thái độ chủ quan có nội hàm: không thận trọng, mất cảnh giác. Trong lịch sử nước ta, thái độ chủ quan điển hình còn được truyền lại trong truyện An Dương Vương mất nỏ thần. Từ khi xây xong Loa thành và có được nỏ thần, An Dương Vương thường rượu chè và đánh cờ tiêu khiển, với thái độ chủ quan khinh thường giặc phương Bắc. Bởi vì có nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn quân địch, An Dương Vương còn chiều con gái mình đồng ý cho kết duyên cùng Trọng Thủy là con trai của Triệu Đà, kẻ đã dẫn đại quân xâm lược nước ta, lại còn cho Trọng Thủy ở rể. Sự chủ quan này của An Dương Vương đã được nhà thơ Tố Hữu tâm sự: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu/ Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”... Rồi để Trọng Thủy lấy trộm được nỏ thần. Khi đã có được nỏ thần, Triệu Đà mang quân sang đánh. Khi quân giặc đã tiến sát chân thành, An Dương Vương vẫn ngồi uống rượu đánh cờ và nói: “Triệu Đà không sợ nỏ thần sao?”.

Trong xã hội, giới nào cũng có người thường thận trọng, người hay chủ quan. Nhưng có lẽ bởi tính chất nghề nghiệp, tôi thấy giới văn nghệ sĩ thường hay có thái độ chủ quan hơn? Chủ quan trong sáng tạo đã đành. Còn chủ quan trong nhìn nhận đánh giá, đặc biệt chủ quan khi nghĩ về mình. Câu ngạn ngữ “Văn mình vợ người” có ngầm ý phê bình thái độ chủ quan của người viết văn. Nhà thơ Xuân Diệu từng gửi gắm ý nghĩ của mình qua tâm sự của núi Hymalaya: “Ta là một, là riêng, là thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta?”. Khi mới bước vào làng văn qua cổng phê bình, tuy có được chính kiến trong phân tích đánh giá nhưng tôi cũng chưa thật chín chắn. Tôi từng viết như thế này: “Làm người viết là chỉ muốn thể hiện ý nghĩ của mình, chính kiến của mình... Xưa nay, tôi chưa viết ra điều gì mà mình không nghĩ, cũng chưa khen ai mà mình không thấy đáng phải khen, kể cả tác phẩm của bạn bè và tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng. Tôi chỉ viết những điều gì nung nấu, không viết ra không chịu nổi và khi viết thì tôi tin là tuyệt đối đúng, cả khi tôi khen và khi tôi chê”. (Tản mạn và chính kiến văn chương - NXB Văn học, 1997, trang 187). Không phải khi viết những câu này tôi chưa nghiên cứu triết học, không biết đến giá trị tương đối. Mà tôi chỉ nhấn mạnh “khi viết thì tôi tin là tuyệt đối đúng”. Phải tin tuyệt đối vào ý kiến của mình thì mình mới viết ra. Chứ chưa tuyệt đối tin thì sao lại viết ra cho bạn đọc. Không tuyệt đối tin mà viết ra thì là có lỗi chứ. Còn mình tin là đúng nhưng thực tế nó chưa thật đúng mà có thể nó còn sai thì là do trình độ của mình thôi, chứ không phải do thái độ của mình không tôn trọng độc giả. Nhưng bây giờ khi đã trưởng thành mà nhìn lại, tôi đã nhận ra sự bồng bột chủ quan khi mình còn trẻ. Nhưng có lẽ, cũng chính nhờ sự bồng bột và chủ quan ấy mà tôi dám khám phá và thể hiện chính kiến của mình khi phê bình tác giả, tác phẩm mà được văn giới và bạn đọc ghi nhận chăng?

Trong quá trình viết văn của tôi, cho đến nay sau những vui buồn, thành công và thất bại, tôi có một kỷ niệm sâu sắc mà nếu không nói ra thì không ai biết cả. Các nhà văn nhà thơ đích thực thường cẩn trọng từng chữ khi viết ra. Đó là thái độ biết “sợ chữ”, không viết bừa viết ẩu. Đối với người viết phê bình lại càng phải như vậy. Trong các bài viết phê bình, khi trích dẫn thơ văn là qua trí nhớ, bao giờ tôi cũng kiểm tra lại, lấy sách để đối chiếu, nên không bị sai sót. Nhưng gần đây, trong một bài viết trên báo “Văn nghệ Công an”, do chủ quan, và do công việc bận mà tôi đã không kiểm tra lại, để lỗi khi trích dẫn một câu thơ của thi sĩ Nguyễn Khuyến. Mấy tuần sau khi báo phát hành, tôi nhận được thư của một độc giả, ông Nguyễn Viên ở số 3, ngõ 35 Kim Đồng, T21 K11 Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, chép lại cho tôi nguyên văn câu thơ này, với một thái độ khoan hòa, rất có trách nhiệm. Tôi mừng vì bài viết của mình đã có người đọc, tuy hơi thẹn vì một chút chủ quan mà dẫn đến sai sót! Thực sự cảm ơn ông Nguyễn Viên, một người yêu văn chương và quý mến các nhà văn mà đã để tâm đọc và góp ý cho tôi. Từ đó, tôi đã rút ra được một bài học sâu sắc về tự nâng cao trách nhiệm của ngòi bút trước sự yêu quý của bạn đọc.

Vẫn biết ở đời, không ai, không sự việc nào toàn vẹn cả. Nhưng sự chủ quan dễ dẫn đến sai sót. Mà sai một ly đi một dặm. Đó là bài học cho tất cả mọi người.

ĐINH QUANG TỐN
Nguồn: Tinh Hoa Việt
XIN XEM THÊM:

·         TRÍ NHỚ CỦA DÂN TỘC
·         TÔN NỊNH ĐẠI SUY
·         TIẾP THỊ BẢN THÂN
·         NỖI OAN CỦA MÔN VĂN
·         QUANH NHÀ MÁY RẠNG ĐÔNG


Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2019

BỐN ẤN TƯỢNG VỀ CHẤT VẤN THÓI QUEN CỦA PHAN HOÀNG

Cảm hứng mạnh mẽ, cuồn cuộn làm nên tính cách của Chất vấn thói quen. Theo một định nghĩa kiểu Mỹ, “Thơ là tiếng kêu khi được 1 triệu đôla và khi đánh mất số tiền đó”. Nghĩa là tiếng nói của cảm xúc mãnh liệt mới là tiếng nói thật sự của thơ…
Nhà thơ Phan Hoàng với tập thơ Chất vấn thói quen

Cho đến nay, Phan Hoàng đã xuất bản 3 tập thơ: Tượng tìnhHộp đen báo bãoChất vấn thói quen. Và đứa con thứ 3 cách đứa thứ 2 đến 10 tuổi, điều đó chứng tỏ Chất vấn thói quen là một sự chọn lọc, hay nói chính xác hơn sự tinh lọc thận trọng của một người làm thơ như lời tác giả tâm sự ở đầu sách: “Tôi luôn sống trong hơi thở nhịp sống thi ca, mày mò học hỏi và khám phá, làm thơ rất nhiều mà cũng tự xoá bỏ rất nhiều. Thơ khó tính, ma lực, linh thiêng. Thơ đòi hỏi sự khác biệt. Thơ cũng là nỗi sợ hãi lớn nhất mà suốt hành trình sáng tạo tôi nghĩ mình khó có thể chạm đến sự vi diệu của nó”.

Cũng đến nay, Phan Hoàng là tác giả của 4 cuốn sách Phỏng vấn tướng lĩnh Việt NamPhỏng vấn người Sài Gòn, Phỏng vấn người Hà NộiDạ thưa thầy!. Nếu không nhầm, 4 cuốn sách này là kết quả của một Phan Hoàng làm báo.

Cầm trên tay “tập thơ 10 năm”, đáng lý tôi rất ngạc nhiên nhưng sự ngạc nhiên ấy đã được giải thích từ trước vì cách đây hơn một năm, tôi có dịp nói với tác giả: “Tôi nghĩ Phan Hoàng chủ yếu và bản chất vẫn là nhà thơ hơn là nhà báo” và nhận được câu trả lời: “Phan Hoàng vẫn làm thơ, hôm nào sẽ đưa anh xem”. Tôi nói thế vì trong thâm tâm và khát vọng của riêng mình, tôi rất thích những nhà thơ đích thực. Hemingway làm báo rất sớm và với tư cách phóng viên, ông đã có mặt ở nhiều chiến trường thời thế chiến. Nhưng ngày nay người ta chỉ biết ông là nhà văn. Tuy vậy, chính kiến thức và tính cách nhà báo đã góp phần một cách quan trọng và hình thành tính cách nhà văn Hemingway. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay, có khá nhiều nhà thơ, nhà văn làm báo. Ước ao hoàn toàn có cơ sở hợp lý: chúng ta sẽ có những nhà văn nhà thơ xứng đáng, tầm cỡ trong số đó.

Trở lại với Chất vấn thói quen, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2012, phải nói là một tập thơ ấn tượng.

Ấn tượng thứ nhất 1: Một tập thơ đẹp. Trình bày trang nhã, giản dị, nhưng không dễ dãi, bìa sang trọng và sâu sắc. Kết cấu tập thơ gồm 3 phần: Văn bản dở dang (10 bài); Cái chết đen và vũ khúc trắng (12 bài); Bóng tối đang nuốt chúng ta (14 bài). Lúc đầu tôi cứ ngỡ những bài thơ được sắp xếp theo thứ tự thời gian sáng tác, nhưng không phải. Có lẽ đây là tính kết cấu nội tại của tác phẩm, đồng thời ngụ ý rằng tác giả sẽ có nhiều sáng tác thơ hơn!

Ấn tượng thứ 2: Chất vấn thói quen là hơi thở của cuộc sống, giàu tính hiện thực, dĩ nhiên là hiện thực xuyên qua lăng kính của ý thức sáng tạo. Ngay trong bài đầu tiên - Mẹ gánh ước mơ, ta có thể nhận diện được điều đó:

Mẹ quảy mẹ chạy
cắc bụp cắc đùng
người ngã sau lưng
người chúi trước mặt

Tuổi thơ tôi trên thúng gióng tản cư
mẹ gánh ước mơ chạy qua mùa loạn lạc

Đó là tiếng súng và cảnh nhân dân ta chạy giặc thời chống Mỹ. Hình ảnh người mẹ mở đầu tập thơ thật có ý nghĩa sâu xa. Phan Hoàng không đóng khung hình tượng người mẹ trong sân nhà, trên mảnh vườn mà mở rộng không gian hiện thực để người đọc có thể nhận ra một thời gian khó của thời đại:

Bàn chân trần rễ tre toé máu
thúng gióng gió đánh hụt hơi
mẹ đặt con ngồi dưới hố bom khét bầm thân đất
ngoái cổ ngóng về đồng làng tan hoang mồ mả ông bà

Gỡ nón quạt mùi bom
bóng mẹ che tầm đạn
âu yếm con mẹ khóc
bập bẹ mẹ con cười
nụ cười con thơ
                    mạnh hơn
                                tiếng gầm đại bác
nụ cười gieo vào lòng mẹ hạt giống hy vọng
đồng làng bình yên gặt những mùa sau…

Viết về người mẹ rất dễ mà rất khó vì có nhiều hình tượng người mẹ thành công trong thơ Việt Nam. Nhưng phải nói Mẹ gánh ước mơ là một bài thơ hay, không dễ trộn lẫn, hình tượng người mẹ rất thật, động đạt, có hồn, tràn đầy sức sống.

Chính tư duy mở rông biên độ đối tượng miêu tả khiến thơ Phan Hoàng luôn giàu giẫy chất hiện thực. Dù đối tượng ấy là cái gì rất riêng rẽ của nhà thơ. Tôi nghĩ Mặt trời trong ngôi nhà thân thuộc khởi điểm từ việc chào đời đứa con của mình, nhưng đối tượng khởi điểm ấy không bị cô lập trong một không gian hạn hẹp của ngôi nhà riêng tư mà được mở cửa và chuyển hoá thành ngôi nhà của “n… tôi”, “ngôi nhà mang gien giao chỉ”.

Hơi thở cuộc sống trong Chất vấn thói quen bắt đầu từ người mẹ, đến sự chào đời của đứa con và toả rộng tới muôn nẻo của hiện thực:

Đường cao tốc
dựng
tường bê tông
đồng vắng
gió nội ngoại tình mất trắng mùa xanh

                       (Ly hương gió)

Và “chữ nghĩa thị trường”:

Ai đầu tư cổ phần tri âm
văn chương tình nguyện liên doanh tri kỷ
chữ nghĩa thị trường xuống chó lên voi

                    (Chữ nghĩa thị trường)

Có thể nói hiện thực cuộc sống là nỗi ám ảnh trong thơ Phan Hoàng. Phải chăng điều kiện nhà báo đã làm cho thơ anh giàu có hơn. Ta đọc thấy ba bài thơ viết về Cần Giờ đặt liên tiếp nhau như một sự bủa vây, không thể không nói, không thể không viết, không thể không làm thơ:

Lãnh hải ập trận cuồng phong
ngư dân tay không chống chọi từng cơn áp thấp

Các ngôi sao cao giọng chỗ ngủ thiếu tiện nghi
rừng duyên hải trầm tư không quen thuỷ triều chữ nghĩa

Nâng ly rượu trắng canh khuya
nhà thơ quèn trong tôi
bất lực tiếng gà xóm chài báo thức

                     (Cần giờ bất lực)

Còn đây là bài Cần Giờ ngơ ngác:
Hãy thử tưởng tượng
những con khỉ nhảy nhót bên nhau
không cần giờ
Chúng ta khác gì những con khỉ?
chúng ta khác gì những con sấu?
chúng ta khác gì những con muỗi?
chúng ta khác gì
không cần giờ…

Một bạn thơ trẻ ngơ ngác
dọc ngang rừng ngập mặn
trong mỗi mắt lá tràm
trong rễ bần rễ đước
đâu đâu cũng ngây ngây mùi máu lẫn mùi bùn 

Trong ba ngày liên tiếp, Phan Hoàng có ba bài thơ về Cần Giờ đầy ấn tượng mà Cần Giờ ngơ ngác là một bất ngờ đối với tôi. Tôi nghĩ chỉ có tắm mình trong hiện thực cuộc sống, thở hơi thở cuộc sống, nhà thơ mới có tứ thơ vượt lên chính mình: “Chúng ta khác gì những con khỉ?/ Chúng ta khác gì những con sấu?/ Chúng ta khác gì những con muỗi?”.

Còn trong bài Cần Giờ lặng im, hiện thực cuộc sống lắng đọng thành nỗi đau:  

Và còn những nỗi đau mà ta không bao giờ chạm được
nỗi đau đau đến lặng im

Lịch sử tầng tầng mỏ quặng số phận
văn học lọc cọc đóng nọc thủ công
Tập thơ Chất vấn thói quen của Phan Hoàng

Ấn tượng thứ 3: Cảm hứng mạnh mẽ, cuồn cuộn làm nên tính cách của Chất vấn thói quen. Theo một định nghĩa kiểu Mỹ, “Thơ là tiếng kêu khi được 1 triệu đôla và khi đánh mất số tiền đó”. Nghĩa là tiếng nói của cảm xúc mãnh liệt mới là tiếng nói thật sự của thơ. Cảm xúc trong Chất vấn thói quen là cảm xúc dâng trào, cảm xúc lan toả và cảm xúc lắng đọng kết hợp với mạch tư duy sắc sảo “làm nên giọng thơ hào sảng và nhịp thơ va động thanh âm không theo một bài bản thói quen” (Trần Nhã Thuỵ, Tuổi Trẻ, thứ hai 27.2.2012). Có lẽ nhờ cảm xúc ấy và ý thức sáng tạo mạnh mẽ, Phan Hoàng thoát khỏi sự lúng túng trong hình thức thơ. Trên một số báo hiện nay, có hiện tượng thơ lục bát bị ngắt dòng theo kiểu phi lục bát để có hình thức thơ tự do. Đó là dấu hiệu lúng túng về hình thức của người làm thơ. Nhưng điều nguy hiểm hơn là vô tình chúng ta phá vỡ kết cấu mỹ học của thể thơ thuần tuý Việt Nam. Nếu thơ Đường của Trung Quốc chọn kết cấu mỹ học đối xứng, thơ Haiku của Nhật xây dựng theo kết cấu mỹ học phản đối xứng thì thơ lục bát Việt Nam kết tinh hai vẻ đẹp đó để làm nên mỹ học độc đáo của mình. Đó là quá trình tiếp nhận và sáng tạo, đề kháng và phản kháng của văn hoá Việt Nam để không bị đồng hoá.

Trở lại với Phan Hoàng, cảm xúc dâng trào đã làm nên Cơn bão ký tự mới:

Cơn bão đưa tôi vào thượng tầng khí quyển
Say điệu luân vũ thiên nga
Lá rừng hoá than trở về xanh cành lộc mới
Đá bí mật mở dần pho ký tự núi lửa

Còn cảm xúc lan toả đã viết thành Cái chết đen và vũ khúc trắng:

Mang một vẻ đẹp khác nàng đến thế giới này
Mang một tinh thần khác nàng đến thế giới này
Mang một thông điệp khác nàng đến thế giới này
Trắng. Đồng phục trắng
Trắng. Da thịt trắng
Trắng. Năng lượng trắng
Trắng. Khát khao trắng
Trắng. Vũ khúc trắng

Trái đất không thể bảo vệ mình trước lỗ đen những nguy cơ
Bao em bé châu Phi chết đói chết khát chết đạn chết đen trên những ngả đường không ánh sáng
Bao cụ già Nhật bản chết chìm trong sóng thần đen sạm phóng xạ hạt nhân

Và cảm xúc lắng sâu:

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Cây bút vô cảm trước thân phận dân nghèo, im lặng trước lãnh thổ đe doạ ngoại xâm, bất lực trước cái ác trá hình nhũng nhiễu!

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Tôi đang ở đâu?
Ở đâu?

                         (Tôi đang ở đâu?)

Không phải mỗi sáng tác được hình thành từ một dạng cảm xúc mà các dạng cảm xúc trên giao thoa, hội tụ để tạo nên dòng cảm hứng định hình bài thơ. Về phương diện này có thể nói sự ra đời của tác phẩm thơ giống như sự chào đời của một sinh mệnh con người. Tinh trùng cảm hứng, khoái cảm gặp cái trứng tư duy tạo nên sự thụ tinh nghệ thuật. Và “ngoại hình” bài thơ được xác lập trong quá trình tiến triển của sự hình thành.

Ấn tượng thứ 4: Cái tôi trữ tình trong Chất vấn thói quen rất rõ nét, sắc cạnh và rất chân thật.

Trước hết đó là cái tôi luôn luôn truy vấn, truy vấn chính mình, đặt câu hỏi trước cuộc sống đúng như cái tên của một bài thơ dùng làm tựa đề tác phẩm. Những đấu hỏi trùng điệp đó làm nên tính triết lý nội tại của tập thơ. Triết lý ở đây, nếu có, không phải được biểu diễn bằng những mệnh đề mà chính là ký hiệu văn bản dấu hỏi (?). Vì bản chất của triết học là câu hỏi, những câu hỏi vô tận về con người, cuộc sống, vũ trụ:

Ốc đảo ngập tràn đức tin của con rồi sẽ
xanh hơn? Thế giới toàn cầu hoá của con rồi sẽ
tình người hơn? Và cả vũ trụ bí ẩn của con rồi sẽ…???

                                             (Ốc đảo 31.8)

Cái tôi trữ tình trong Chất vấn thói quen hiện lên góc cạnh sắc nét của sự trăn trở tìm kiếm, khám phá, sáng tạo, khát khao đi tìm cái mới:

Giữa những cơn sóng tín hiệu
tôi tìm thấy gương mặt lênh đênh tôi
đúng tôi
đớn đau tôi
thăng hoa tôi
trong những văn bản dở dang
văn bản vô ngôn
văn bản không khuôn thước
văn bản không văn bản
Làm sao bùng lên nhiều cơn hồng thuỷ
dâng sóng tín hiệu đỉnh khoái
cuốn phăng những kho văn bản mộng mị ngủ muộn
những kho văn bản hư danh giả dối
khủng bố dòng chảy tự do ngôn từ
ám sát khát khao chồi xanh ý tưởng
đe doạ cánh rừng nguyên sinh rực hương thiếu nữ căng tràn văn bản nhựa sống tương lai

                                                            (Văn bản dở dang)

Ý thức đó khiến thơ Phan Hoàng vận động và sống động như bản chất cuộc sống. Nhưng chỉ một phút lơ là, mất cảnh giác thì “thói quen” sẽ lộ diện trong những dòng thơ có vẻ quen quen, chẳng hạn như:

từ nguồn sữa bầu ơi thương lấy bí cùng ru hời của mẹ
cổ tích ăn khế trả vàng run run hơi thở của bà
thần thoại nhổ tre ngà đánh giặc những khuya biển thức của cha ông

                                (Mặt trời trong ngôi nhà thân thuộc)

Đó cũng chính là trường hợp “hạt bụi vàng” trong bài Bụi vàng Sơn Nam.

Và sau cùng là cái tôi chân thật, thèm khát không khí tự do tuổi thơ, muốn vứt bỏ những trói buộc của máy móc, của đời sống phồn tạp:

Những bài báo đặt hàng đang truy đuổi tôi
nhuận bút ứng trước đang truy đuổi tôi
như con chuột bị lũ mèo rượt tới hang cùng ngõ tận

Gục đầu lên máy vi tính
tôi thèm đứt ruột
được làm ngọn gió không đồng phục
                              không điện thoại
                              không internet
bay về mái tranh vách đất của mẹ           
cởi trần lăn lóc tắm mưa

Đọc mấy câu thơ này, tôi bỗng nhớ đến Goethe, con người vĩ đại của văn học Đức và thế giới. Một lần vào công viên, thấy một người ăn mày nằm ngủ ngon lành trên thảm cỏ xanh, ông buột miệng nói với người đi bên: “Giữa ta và người ăn mày kia, không biết ai hạnh phúc hơn ai!?” Còn trong thơ Phan Hoàng, cái tôi khao khát được làm ngọn gió tự do không chỉ dừng lại ở đó.

Sài Gòn 2-2012
TRẦN PHÒ
Nguồn: TT&VH

___________________

Tác giả Trần Phò là nhà nghiên cứu, dịch giả, nhà giáo, nguyên giáo viên chuyên văn Trường PTTH Lê Hồng Phong và Lê Quý Đôn, TP.HCM.


XIN XEM THÊM:

·         TRÍ NHỚ CỦA DÂN TỘC
·         TÔN NỊNH ĐẠI SUY
·         TIẾP THỊ BẢN THÂN
·         NỖI OAN CỦA MÔN VĂN
·         QUANH NHÀ MÁY RẠNG ĐÔNG
·         NHÀ VĂN LÀM NGHỀ GÌ?


Bài đăng mới nhất

TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI CUỘC THI “MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI”

Sau 8 tháng diễn ra, cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức (với sự tài trợ giải t...

Bài đang đọc nhiều