Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

VĂN CAO TRONG CÕI THƠ

Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau không ít câu hỏi không dễ trả lời. Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, về mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn Cao cô độc.
Nhà thơ Văn Cao

Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được. Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm Văn Cao.

Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng “Tôi ở” viết tháng 8-1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao “tới bao giờ tôi gặp được biển?”. Trong sự mến mộ của công chúng phổ thông, chân dung nhạc sĩ Văn Cao luôn khỏa lấp chân dung nhà thơ Văn Cao, bởi lẽ cảm giác xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu xa.

Ngoài những phút giây phiêu lãng với giai điệu, Văn Cao cũng lắm lúc rạo rực với sắc màu qua vài bức tranh giàu cá tính thẩm mỹ. Tuy nhiên, lúc chăm chú quay lại với thi ca, Văn Cao có tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” nghiêm trang và khơi gợi: “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn, càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng”. Con đường thơ của Văn Cao đã chuyển dịch đúng như vậy.

Khởi nguồn thơ Văn Cao qua đôi bài “Ly khách” hay “Linh cầm tiến” mang dấu vết của Đường thi tùy hứng hoặc Đường thi ứng họa, như những câu “Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải/ Quằn quại cờ bay trong gió sương” hay “Tâm sự chừ như trường giang vũ khúc/ Lãng đãng sương buông cổ độ mờ”. Sự nghiệp sáng tạo của Văn Cao chỉ nên tính từ khi thơ và nhạc cùng đồng hành để tạo nên phong cách Văn Cao.
Thưởng thức một cách tỉ mỉ, không mấy khó khăn để thấy được, tâm hồn nghệ sĩ của Văn Cao biến động qua ba giai đoạn với ba nét đẹp riêng biệt: giai đoạn mềm mại đắm đuối, giai đoạn lạc quan hào sảng và giai đoạn can trường sắc sảo. Và qua ba giai đoạn có trình tự trước sau, có thể khám phá được thế giới nội tâm của Văn Cao!

Giai đoạn mềm mại đắm đuối, âm nhạc Văn Cao có “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”... thì thơ Văn Cao chỉ có dăm vần điệu trễ nải: “Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa”, lúc thảng thốt “Ai về Kinh Bắc”, hoặc “Thuyền vào nằm ngủ trong mưa/ Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng” lúc bùi ngùi “Đêm mưa”.

Có lẽ đã dồn mọi tinh lực để thăng hoa ca khúc, thơ Văn Cao lác đác chớp sáng vài câu thơ lộng lẫy như “sông trắng bờ xa lộ bóng nhà” và “ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi”. Thơ Văn Cao dường như bị say nắng Thơ Mới, cái rạo rực “quê lòng rộng mở đường cho sạch/ đón những bàn chân trắng nuột nà” cứ nhang nhác Xuân Diệu, còn cái sầu não “Đường ở đây mưa ướt đất trơn/ Nắng lên không kịp kẻ kia hờn” cứ từa tựa Lưu Trọng Lư.

Giai đoạn lạc quan hào sảng, âm nhạc Văn Cao bùng nổ với “Tiến quân ca”, “Làng tôi”, “Chiến sĩ Việt Nam”, “Ngày mùa”, “Sông Lô”, “Bắc Sơn”, “Tiến về Hà Nội”... thì thơ Văn Cao nhen nhóm chia tay Thơ Mới. Trên gác trọ xóm cô đầu Vạn Thái nhìn về phía Ô Cầu Dền, Văn Cao viết “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” vào năm 1945 bằng ngọn gió run rẩy khác lạ.

Tuy vẫn còn chút hơi hướng cổ trang “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây” nhưng nhiều chữ có hồn cốt mạnh mẽ kiểu Văn Cao đã xuất hiện như “ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi”, như “nhà ta thuê mái gục tự mùa thu”, như “ta về gác chiếu chăn gào tự tử”.

Nhấn thêm một bước, bài thơ “Ngoại ô mùa đông 1946” đánh dấu thơ Văn Cao trưởng thành, với những câu chưa từng có trong Thơ Mới như “ai kẻ dìu hoa chống phường Dạ Lạc” hay “một dãy phố nghiêng cả thành Hà Nội”. Và trong sự thay đổi bút pháp, có cả sự thay đổi tư tưởng, từ thái độ lưỡng lự “khăn lụa che ngang mày thét nhạc/ gót chân xanh khép giọng Tỳ Bà” sang hành động dứt khoát “đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông”. Tuy nhiên, bài thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” và bài thơ “Ngoại ô mùa đông 1946” chỉ tạo đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca “Những người trên cửa biển” viết vào mùa xuân 1956, giúp cán cân thơ – nhạc có thành tựu tương đương.

Với bốn chương chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những người trên cửa biển” được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”. Cái riêng hòa vào cái chung, “Những người trên cửa biển” như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ “kíp thợ đêm lê về đến xóm/ nghe rét mùa đông nổi cuối sông” và bất chợt hân hoan “những năm đầu chính quyền cách mạng/ giấc mơ của Hải Phòng/ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ”.

Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định “có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình” để mường tượng hòa bình đích thực “chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất” và nghe được những va đập mỏng mảnh “tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen”.

Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.

Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca “Những người trên cửa biển” đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỷ 20, bởi tình yêu mảnh đất “mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi” đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại “cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.

Giai đoạn can trường sắc sảo, âm nhạc Văn Cao chìm vào im lặng, chỉ vụt lên một “Mùa xuân đầu tiên” nôn nao cùng non sông thống nhất năm 1975. Tất cả tâm tư Văn Cao dồn hết vào thơ “tung ra hàng loạt hàng loạt/ những con người thật của chúng ta”.

Bao nhiêu năm âm thầm trong căn phòng khiêm nhường ở 108 Yết Kiêu – Hà Nội, thơ Văn Cao chắt lại như “tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ trong chậu nước” để đối diện với nghịch cảnh “có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Hai bài thơ viết cho mùa thu ở hai cột mốc thời gian khác nhau vẫn không mấy khác nhau về xao xác, mùa thu 1968 “những bóng người loang trên Hồ Tây” và mùa thu 1992 “có tà áo trắng loang qua khung cửa” chứng tỏ ảo giác đơn lẻ hụt hẫng kéo dài qua vùng thơ ưu phiền. Bài thơ “Thức dậy” vỏn vẹn hai câu ít nhiều thể hiện được cứu cánh thi ca đối với Văn Cao: “Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy/ Những đam mê quên ngủ suốt ngày”.

Cô đơn và chịu đựng, Văn Cao chỉ có một nguồn động viên duy nhất “những ngày đau khổ ấy/ khuôn mặt em/ như mảnh trăng những đêm rừng cháy” để tiếp tục tin cậy nhân gian xuôi ngược “trên đường đi/ anh đặt em trên dốc núi/ để tìm lại những đường mềm của núi”.

Lời đề từ bài thơ “Ba biến khúc tuổi 65”, Văn Cao viết “những ngày buồn không nói được, tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Do vậy, có thể hình dung giai đoạn viết trường ca “Những người trên cửa biển”, Văn Cao không khác gì một hiệp sĩ sử dụng trường kiếm, trong vô chiêu lẫn hữu chiêu đều tung tẩy kiếm ý và kiếm khí, còn thơ Văn Cao giai đoạn này đã quay sang sử dụng đoản đao nhăm nhăm những đòn dứt điểm. Không phải cuộc chơi nghệ thuật nữa, thơ Văn Cao trở thành cuộc truy vấn số phận.

Truy vấn số phận về sự khốn đốn “tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không cách gì gỡ được”, truy vấn số phận về sự được mất “con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” và truy vấn số phận về cả những “Giấc mơ” chập chờn: “Dưới mái nhà/ Một người đang ngủ/ Với giấc mơ của những vì sao/ Những vì sao đang kể chuyện/ Giấc mơ của mái nhà/ Giấc mơ của một người đang ngủ”.

Và nhờ cuộc truy vấn số phận miệt mài, Văn Cao được tự do tái sinh những trải nghiệm, từ trải nghiệm thua thiệt cá nhân “bỗng nhiên/ bóng của người ấy chia mất/ nửa mặt tôi/ một nửa mặt của tôi/ của tôi nửa mặt trắng/ miệng tôi nửa miệng đắng/ một con mắt tôi/ lặng lẽ lấp lánh/ sau bóng đen người ấy” đến trải nghiệm lầm lạc ân tình “những bó hoa mang tới/ chúc tụng/ thành công một con người/ hàng ngày hàng ngày/ xây thành cái mồ chôn/ con người thành công ấy/ người ta đôi khi bị giết/ bằng những bó hoa”.

Những câu thơ nặng trĩu tâm tư lắm lúc có thể ở lại vì bạn đọc, nhưng bao giờ cũng đến vì tác giả. Thơ hóa giải tủi hờn và bất trắc. Những câu thơ hoang mang và chấp chới tuyệt vọng của Văn Cao như “có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt” không chỉ kháng cự khổ hạnh cho tác giả, mà còn giúp độc giả cách hiểu một giọt nước mắt, cách nghe một tiếng thở dài.

Bởi lẽ, nỗi buồn không phải quan trọng nhờ được nhà thơ đắp lên những mỹ từ khoa trương, mà vì nhà thơ gõ vào trái tim mình để chứng minh nỗi buồn có ích cho việc nuôi dưỡng bản tính lương thiện của con người trước “Thời gian” khắc nghiệt: “Thời gian qua kẽ tay/ làm khô những chiếc lá/ kỷ niệm trong tôi/ rơi/ như tiếng sỏi/ trong lòng giếng cạn/ riêng những câu thơ còn xanh/ riêng những bài hát còn xanh/ và đôi mắt em/ như hai giếng nước”.

LÊ THIẾU NHƠN
Nguồn: VNCA


Thứ Ba, 29 tháng 1, 2019

NGÀ NGÀ SAY CÙNG “LỤC BÁT PHỐ” CỦA VŨ THANH HOA

Tiếp nối nguồn thơ, mạch thơ ào ạt tràn đầy năng lượng của “Nỗi đau của lá”, “Trong em có người đàn bà khác”, “Lời cầu hôn đêm qua”, Vũ Thanh Hoa vừa cho ra mắt bạn đọc tập thơ “Lục bát phố” với chuyên biệt một thể loại thơ, đó là thể thơ lục bát truyền thống. Cái tên sách lạ: Lục bát phố!

Tôi hào hứng đọc và bị cuốn hút theo suốt 46 bài cả tập. Xin nói ngay rằng, lục bát Vũ Thanh Hoa trong tập này toàn những bài hay, mới và lạ, một suối thơ tình dào dạt, khắc khoải, cuồn cuộn chảy, chảy luênh loang, cuốn hút.
Nhà thơ Vũ Thanh Hoa

Gọi tên người yêu, ấn tượng thứ nhất.

Khi người ta yêu nhau, dù có ở bên nhau cũng thầm nhắc tên người mình yêu bất kể lúc nào. Trịnh Công Sơn “Gọi tên bốn mùa”, Trường Sa “Xin còn gọi tên nhau” và Vũ Thanh Hoa, hình như tên người yêu cũng luôn  ám ảnh chị. Lúc thì chị mượn “gió gọi mong manh” , lúc thì “ký ức êm đềm gọi” và khi thì chính em gọi”. Những “gặp, viết, rơi, vấp, thốt” (động từ), với những “bời bời”, “bất thình lình”, “sẽ sàng”…(tính từ) là những trạng huống khi chị gọi tên người yêu. Có 10 lần Vũ Thanh Hoa trong “Lục bát phố” đã gọi như thế. Cả mười lần gọi, không lần nào giống lần nào, cả mười lần đều khắc khoải nhớ thương, đau đáu mong chờ.
               
Ngay bài thứ hai trong tập - bài “Chợ chữ” chị đã gặp “tên anh trong cảnh này: “Lục tìm vốc chữ ngả vàng/ Giật mình rơi một sẽ sàng tên anh”. Người đọc cũng như sửng sốt cùng chị. Sửng sốt bởi “Chợ chữ”, một tứ thơ lạ, cách diễn đạt lạ, sửng sốt bởi “rơi một sẽ sàng tên anh”. “Rơi sẽ sàng” nhưng sao mà nó nặng thế, ngơ ngác vậy! Vì: “Chợ đông nào có ai chờ/ Buôn bao giờ lãi một ngờ nghệch yêu/ Đong phiêu diêu, trả phiêu diêu/ Nghiêng môi sểnh mắt chín chiều một đau”.
               
Vũ Thanh Hoa còn gọi thế này: Vẽ tình lên bức mành sương/ gọi tên nhau. Vọng lại còn…/ mùa thu” (Ngả nghiêng). “lãng quên/ vấp/ một cái tên/ nhặt mùa thu/ vấp ngả nghiêng/ lá vàng” (Vấp). “gặp nhau giữa những dãy tên/ ngất nga ngất ngưởng lạ quen phập phờ” (Lơ mơ). “Thình lình thốt/ một cái tên/ Nửa ngày ngơ ngẩn/ nửa đêm giật mình” (Nửa mùa). “Tình bay trên sóng chơi vơi/ trôi về khởi thủy bời bời tên nhau” (Tắm). “Buổi chiều chẳng gọi được tên/ chạy xe xuống phố/ điên điên khùng khùng” (Thiêu thân). “Tên anh gió gọi mong manh/ nghe từng vụn vỡ ghép lành mùa xưa” (Trăng bạc). “Xếp đôi cũ nhất ra thềm/ chợt nghe ký ức êm đềm gọi tên” (Đôi giày cũ). “Cất vào riêng góc để dành/ Chữ đầu tiên viết tên anh ngập ngừng” (Khóa chữ).

Chẳng biết ngẫu nhiên hay cố ý mà gọi tên nhau đầu tập thơ ở “Chợ chữ” (bài thứ 2) để đến lần gọi lần thứ 10 lại xuất hiện ở bài “Khóa chữ” (bài áp chót). Cả hai bài đều liên quan đến “chữ”. Từ khi “lục tìm vốc chữ ngả vàng” thấy “rơi một sẽ sàng tên anh” đến lúc quyết định “cất vào riêng góc để dành/ Chữ đầu tiên viết tên anh…” và “khóa chữ” nhốt tên lại! Chẳng biết nhốt tên anh trong tủ, trong rương…hay trong chính trái tim tác giả đa tình để rồi lúc nào đó lại “bất thình lình” “vấp phải” … Thế mới biết tác giả đã yêu da diết đến chừng nào!

Ám ảnh thứ haiyếu tố sex trong thơ.

Tình yêu thường gắn với tình dục. Tình dục là đỉnh cao của tình yêu. Viết về tình dục không dễ, nhất là đối với thơ. Viết sao cho vừa cao sang, thánh thiện lại vừa đời thường, không thô tục, dễ dãi. Vũ Thanh Hoa đã đạt được điều này. Bạo liệt nhưng vẫn kín đáo, cháy bỏng nhưng vẫn dịu dàng. Vừa thoát tục vươn đến cái đẹp lại vừa gần gũi bình dị như cuộc đời vốn thế. Đọc những bài thơ về vấn đề này của Vũ Thanh Hoa, ta cảm thấy yêu người, yêu cuộc sống, trân quý những gì tốt đẹp nhất mà tạo hóa đã ban cho.

Tắt đèn muôn phía tràn đêm/ Mắt em óng ánh êm đềm suối trăng/ trải trên tơ lụa mịn màng/ nuột nà vóc ngọc mơ màng bờ vai” (Đêm vĩnh hằng). Để rồi “lướt môi”, “chân dài”, “tay đan tay”, “vòng ôm cuộn sóng cuốn chìm đam mê”. Rồi thì “buộc nhau vào nửa câu thề/ trói nhau bốn phía lối về mênh mang”… Các động từ “lướt môi”, “đan tay”, “ôm”, “cuộn chìm”, “cuốn sóng”, “buộc”, “trói”, “thả”, “chia”; các tính từ “rùng mình”, “nuột nà”… đã làm sống động hình ảnh cuộc tình đang ở độ mây mưa. Hay như “Đắp cùng nhau một góc chăn/ Ngờ đâu bất tận dấu nằm thiên di”. Đọc đến đây tôi lại nhớ đến Vi Thùy Linh với bài thơ có câu “Khỏa thân trong chăn thèm chồng”  và thấy Vũ Thanh Hoa dữ dội nhưng vẫn kín đáo, ý nhị của người phụ nữ Á Đông.
Bìa tập thơ Lục bát phố của Vũ Thanh Hoa, Nxb Hội Nhà văn 2015

Cuộc tình để lại bao nhớ nhung với những lần gọi tên nhau và đặc biệt là “dấu nằm”. Vũ Thanh Hoa không dưới ba lần nhắc đến “dấu nằm” trong tập thơDấu nằm nghiêng phía lênh đênh/ À ơi…cái ngủ phủ mềm mắt môi” (Ru xa); “đêm trườn qua dải eo thon/ đổ cơn xoáy lốc niêm phong dấu nằm” (Nhất dạ tình). Thế cũng đủ để ám ảnh lắm rồi. Hơi ấm người vẫn còn đây, cuộc tình đêm ấy vẫn còn đây mà bây giờ “qua nhà anh chẳng dám dừng/ trăng xưa lạc giữa ngập ngừng phù vân”.

Bạo liệt, đam mê, cuốn hút nhau đậm chất sexy qua các bài “Đêm vĩnh hằng”, “Ru xa”, Duyên nợ”, “Nhất dạ tình”, “Tắm”, “Du mục”… đặc biệt trong bài “Tắm”. “Nước dâng tới đỉnh khát thèm/ cuốn vào đắm đuối một phen tận đời” để cho “tình bay trên sóng”, “trôi về khởi thủy”, để “chẳng cần biết sẽ về đâu/ cứ vui như thể hôm sau tử hình/ vui như phút cuối hòa bình/ nhỡ mai thế giới thình lình chiến tranh/ xà phòng bong bóng tan tành…”. Dữ dội? Sống gấp? Xin hãy bỏ qua những định kiến khắt khe cùng những giả tạo làm dáng cao ngạo, thì đây mới chính là Đời, là Thực. Đó là cái Đẹp vĩnh hằng mà tạo hóa đã ban cho, xin hãy tận hưởng!

Trong “Du mục”, cũng với tóc, vai trần, mi xanh, với những “vòng ôm”, “ngược về”, “hút vào” nhưng cái phút “dạ cầm so phím giao ân” ấy mới thánh thiện làm sao! Trong 15 câu thơ của bài có 8 câu tả về chuyện làm tình nhưng Vũ Thanh Hoa dùng tới 8 cặp từ láy rất mộc mạc, tài tình: mi xanh du mục mơ màng/ vai trần nghiêng ngả hàng hàng phù điêu/ vòng ôm thành lũy liêu xiêu/ ngược về hoang dại vương triều phục hưng/ hút vào thăm thẳm từ trường/ mơn man cho những vết thương dịu mùa/ phiêu diêu phiên khúc giao thừa/ truân chuyên thanh thản như vừa hồi xuân” (Những chữ in đứng là từ láy).

Tôi thích yếu tố sex trong thơ Vũ Thanh Hoa. Sex trong lục bát khó là thế mà chị vẫn thể hiện được. Kể cũng cao tay đấy chứ!

Ấn tượng thứ ba: Vũ Thanh Hoa đã mạnh dạn làm mới thể thơ lục bát.

Bằng cách ngắt câu, xuống dòng, dùng dấu chấm câu giữa dòng thơ. Điều này nhiều tác giả đã làm nhưng Vũ Thanh Hoa tôi thấy ấn tượng hơn. Có 46 bài thơ trong tập thì chỉ có 18 bài viết theo thể truyền thống (lục trên bát dưới từng cặp một), 18 bài vừa truyền thống vừa ngắt dòng, 10 bài ngắt câu xuống dòng toàn bộ (có dòng chỉ có một từ hoặc hai từ). Trong 18 bài “lục trên bát dưới” thì có bài chị cũng dùng dấu chấm câu ngay trong dòng lục hoặc dòng bát. Tôi đặc biệt thích các bài ngắt câu xuống dòng toàn bộ. Tứ thơ hay, không chỉ về tình yêu mà trong tình yêu là vấn đề xã hội, là trách nhiệm công dân, là làm người, là nhân tình thế thái…

Đó là các bài “Chi chi chành chành” nói về sự “tận cùng”. Tận cùng ngày là đêm, tận cùng đêm là ngày, tận cùng vui “chẳng đánh rơi được buồn”, “tận cùng say/ lại gặp say/ tỉnh ra ngâm ngấm ngây ngây/ dật dờ/ chành chành/ chi/ lắm bất ngờ/ tận cùng muôn sự giả vờ/ gặp…/yêu”. Từ “chi” đặt một mình một dòng thật đắc địa. Nó vừa là chi chi chành chành vừa là thay cho dấu hỏi.

Bài Vấp cũng lả tả chữ như thế. Dòng nhiều nhất có 3 từ, dòng ít nhất có 1 từ. Bài lục bát có 12 câu (6 câu lục, 6 câu bát) được rắc ra thành 43 dòng. Riêng điệp từ “vấp” chiếm tới 11 dòng, trong đó chỉ có một dòng 2 từ (“vấp mãi” nằm ở cái vấp cuối cùng). Sự vấp này thật hay, vấp đủ thứ, vấp toàn những cái hư vô, có có không không. Đây là những cái chị đã “vấp” phải: nửa giấc chiều, nửa cô liêu, kiếp đa mang, vẻ dịu dàng, một cái tên, ngả nghiêng lá vàng, nắng chang chang, hàng lệ cong, thoáng tịnh không, mắt nạ dòng. Chủ thể vấp cũng thật lạ: đêm, sum vầy, phũ phàng thong dong, bão dông, từ em, nhặt mùa thu, mưa dầm, môi cười…đối lập với cái vấp. Để cuối cùng “từ bi/ mấy độ cho vừa/ phận này/ vấp mãi/ chẳng/ chừa…/ phiêu diêu”.

Bài “Nói chuyện với cốc cafe” cũng vậy. “Trên bàn/ thừa/ cốc cafe/ uống vào/ thì đắng/ bỏ về/ thì cay/ Say hôm qua/ đã/ qua say (đảo từ rất hiệu quả, từ “đã” đặt thật đúng chỗ). Bài “Đoản khúc lá” cũng ngắt dòng, tải từ như thế nhưng thêm cả dấu chấm trong dòng chỉ có 4 từ. “sắc/ không/ thiền tịnh. Duyên. Tình/ tiễn thu/ để lá tiễn mình/ và/ rơi…”. Đúng là thu rơi! Chị đã dùng cả Nghệ thuật “tạo hình” đầy hiệu quả!

Hai bài cuối của tập thơ “Lỡ” và “Lục bát @” càng bộc lộ rõ hiệu quả của hình thức ngắt câu, xuống dòng này. Đặc biệt “Lục bát @” với những off, file, save, Insert, cancel, delete, Shut down… toàn ngôn ngữ vi tính, tin học khô cứng mà vào thơ lục bát ngắt dòng của Vũ Thanh Hoa lại mềm mại, uyển chuyển và  thú vị bất ngờ:  Em ngồi sắp xếp chiêm bao/ off mùa hò hẹn/ Save vào/ từng file/ cuộc tình ngắn/ cuộc tình dài/ dư âm/ đồng vọng/ hình hài tình nhân…” để “bây giờ/ Insert/  ngày xưa/  nhớ quên/ Delete/ thiếu thừa/ Cancel/ Bán buôn/ cho trắng/ nỗi buồn/ nợ  nần/ vay trả/ vuông tròn/ Shut down”.

“Lục bát phố” là một tập thơ rất đáng đọc. Tác giả mạnh dạn đổi mới về hình thức, hiện đại từng câu chữ, chắt lọc từng từ và lựa chọn tinh tế từng vị trí để tạo hiệu ứng khác lạ, ám ảnh mà vẫn bay. Tuy thế, vần điệu vẫn đảm bảo làm cho câu thơ tưởng như rời rạc mà lại dính kết nhau, uyển chuyển mượt mà. Tuy vậy, giá như Vũ Thanh Hoa dụng công hơn nữa trong việc chọn vần, để cho một số câu không bị gần vần, trùng vần và linh hoạt trong việc sử dụng vần (không có câu nào dùng vần lưng) thì hiệu quả còn cao hơn nữa.

“Lục bát phố” dùng thể thơ lục bát toàn tập nhưng không cho ta cảm giác đều đều, nhàn nhã mà trái lại rất cuốn hút, rất bất ngờTập thơ này đã chứng tỏ độ chín, sự chiêm nghiệm và lắng đọng của Vũ Thanh Hoa. Xin chúc mừng chị không chỉ “một mình xuôi phố ngược xe/ Phố dưng dửng nắng phố se sẽ buồn” (Lục bát phố) nữa mà là “giấu đi một nụ đa tình/ Ngày xuân mơn mởn thình lình nở hoa/ én bay gần/ én bay xa/ rượu còn chưa cạn bỗng ngà ngà say”(Lục bát xuân). Vâng, tôi đang ngà ngà say cùng “Lục bát phố” với Vũ Thanh Hoa đây!

 ĐỖ XUÂN THU
Hội VHNT tỉnh Phú Thọ



Thứ Hai, 28 tháng 1, 2019

CƠN BUỒN NGỦ SAU TAY LÁI

Đông, 38 tuổi, đã lái xe tải gần 20 năm vừa xin nghỉ chạy tuyến Bắc-Nam khi rất nhiều đơn hàng áp Tết đang chờ. Cậu không chịu nổi áp lực thời gian phải giao hàng gấp, ám ảnh tai nạn giao thông và cũng không muốn tiếp tục bỏ bê gia đình.

Đông là em họ tôi. Nhà năm con, bố mẹ nghèo, cậu phải nghỉ học ở lớp Bảy, đi bán cà rem, bánh mì, đậu phộng theo xe đò từ Cần Thơ đi Hậu Giang, Sóc Trăng, rồi theo làm lơ cho những chủ xe mình từng quá giang kiếm sống. 18 tuổi, Đông thi lấy bằng lái, xin làm tài xế chở hàng giữa các tỉnh miền Tây. Cũng những ngày này, cận Tết năm 2003, sau khi giao bia cho đại lý ở Kiên Giang, trên đường lái xe tải quay về Cần Thơ giữa khuya, do buồn ngủ vì làm việc liên tục, Đông lấn xe qua tim đường. Hai xe máy bị tông, hai người chết, hai người gãy chân, tay. Đông lĩnh án bảy năm tù. Nhà cậu bán đi hai công đất ruộng, còn người chủ bán luôn xe tải để bồi thường nạn nhân.

Được ân xá sau bốn năm thụ án, nhưng không có việc làm, Đông lần mò học lại, thi lại bằng lái xe tải vì "cũng chẳng biết làm gì khác". Lặp lại cuộc đời một lần nữa: đi lơ xe, học đường xá, cầm vô lăng. Khi đã lái cứng, chủ xe cho cậu lên tài xế. Mười mấy năm qua, xe container của Đông liên tục chở khoai lang, dừa khô, thuỷ sản đông lạnh từ miền Tây vượt hàng ngàn cây số ra Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nam... rồi thồ từ Bắc vào Nam hàng gia dụng, thực phẩm, phụ gia nuôi thuỷ sản, hàng Trung Quốc.

"Áp lực lớn lắm", Đông nheo mắt nhìn ra quốc lộ trước nhà. Thời gian giao hàng phải đảm bảo đúng hẹn, nếu trễ thì khách không nhận, hàng hoá bị hư. Đối tác mắng vốn chủ vài lần là mình bị đuổi. Kế đến là nỗi sợ hãi khi cơn buồn ngủ ập đến trong khi hạn chót cạn dần mà quãng đường còn xa. Mỗi chuyến đi hàng Nam-Bắc thường có hai tài xế luân phiên lái, mỗi người được chủ trả công sáu triệu đồng. Khi người này chạy thì người kia tranh thủ ngủ bù. Hai người chạy còn đuối, vậy mà nhiều lúc Đông vẫn nhận chạy một mình cả tuyến để lĩnh tiền gấp đôi. Chủ đâu phải bắt buộc phải mấy tài, miễn đảm bảo giao hàng.

Đã nhiều lần, chiếc container 40 feet của Đông chở thuỷ sản đông lạnh từ Cần Thơ đi Lạng Sơn với cái hẹn chỉ 52 tiếng đồng hồ. Cả chuyến đi và về xuyên dọc đất nước chỉ 5 - 7 ngày, hai mắt luôn căng cứng, rảnh rang vài phút là cậu thiếp đi bất cứ ngồi hay dựa chỗ nào. Rất nhiều chuyến đi, tài xế chỉ được ngủ tổng cộng khoảng 6 tiếng trong 2-3 ngày. Cơn buồn ngủ là ám ảnh lớn nhất đối với các tài trên đường thiên lý.

Vài đồng nghiệp của Đông tuyên bố đó là lý do khiến họ phải dùng ma tuý để có thể thức liên tục nhiều giờ. "Ôm xe container chạy Nam - Bắc mỗi tháng 3, 4 bận, phải chơi ma tuý mới cầm nổi vô lăng", họ nói. Một vài trong số họ, trở thành những kẻ giết người.

Tôi tìm gặp một lãnh đạo ngành giao thông ở miền Tây để tìm hiểu về tài xế đường dài. Vị này thừa nhận, họ có vai trò rất lớn trong nền kinh tế khi tham gia một khâu quan trọng là vận chuyển hàng hoá, hành khách. Họ điều khiển những cỗ máy nhiều tỷ đồng và chở khối lượng hàng hoá trị giá gấp rất nhiều lần, nắm sinh mạng hàng chục hành khách. Tuy nhiên, việc đào tạo, cấp phép, quản lý, sử dụng cũng như đảm bảo quyền lợi cho lực lượng lao động này "chưa chặt chẽ".

Sự "chưa chặt chẽ" ông thừa nhận khớp với tâm sự của em họ tôi. Đông và những bạn nghề nhiều năm qua vẫn "xin việc" theo cách: Chủ xe hỏi tên tuổi, quê quán, kinh nghiệm tài xế, xem bằng lái, coi tướng tá, thoả thuận giá tiền công và ra điều kiện làm việc. Thế là tài xế lên đường.

Có gì sai nếu hàng nghìn lao động nam giới chỉ học hết cấp hai, cấp ba và "không biết làm gì ngoài tài xế"; có gì sai khi họ cũng như mọi người, mưu cầu một công việc bằng sức mình, muốn nuôi gia đình? Hẳn nhiên là không sai. Nhưng một số tài xế, những người thuê họ, cơ quan quản lý giao thông, các nhân tố tham gia chuỗi logistics vận tải đường dài nghìn tỷ đồng thì có.

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định người lái xe ô tô chạy tuyến đường dài không được lái xe quá 10 giờ mỗi ngày và liên tục 4 giờ; sau mỗi 2,5 tới 3 tiếng, tài xế phải nghỉ từ 30 - 45 phút mới tiếp tục cầm lái. Việc sử dụng ma túy khi điều khiển phương tiện giao thông hiển nhiên là hành vi bị nghiêm cấm. Ngoài ra, Nghị định 86/2014 còn quy định những xe này bắt buộc phải gắn thiết bị giám sát hành trình. Chủ xe, doanh nghiệp vận tải, người lái, Bộ Giao thông vận tải và Cảnh sát giao thông chịu trách nhiệm ngăn chặn và xử lý các vi phạm.

Vậy mà mỗi năm, có gần 9.000 người tử vong vì tai nạn giao thông - tương đương dân số một xã quy mô trung bình ở đồng bằng bắc bộ. Thiệt hại kinh tế khoảng 3% GDP.

Lãnh đạo các tỉnh, trưởng ban an toàn giao thông các tỉnh, thành, cơ quan Giao thông, Công an không thể chậm trễ hơn rà soát toàn bộ doanh nghiệp vận tải, tài xế đường dài, cơ sở đào tạo, cấp phép lái xe. Những người có trọng trách về an toàn giao thông cũng cần nhận đủ chế tài, thôi chức nếu số tai nạn không giảm.

Cuối câu chuyện với tôi, Đông ngập ngừng. Cậu bảo tài xế đa số thất học, đời sống bấp bênh dù thu nhập cao hơn nghề khác. Họ biết mình chưa có đủ kỹ năng làm nghề đã phải "tốt nghiệp", lao vào cuộc mưu sinh. Họ thực ra đã luôn chuẩn bị sẵn tinh thần.

Những tài xế gây chết người, thực ra, chỉ là một phần của chuỗi mắt xích vấn đề bị bỏ bê.

ĐOÀN HUY PHONG
Nguồn: Vnex


Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

ĐỖ ANH VŨ: HUẾ LUẬN

Có lẽ trong các thành phố của Việt Nam, chỉ xếp sau Hà Nội (Thăng Long), Huế là địa danh đi vào thi ca nhạc họa nhiều hơn cả. Là kinh đô cuối cùng trong thời phong kiến, nhắc về Huế bao giờ cũng là một biển trời hoài niệm. Huế còn có những địa danh đã trở thành nét đẹp, nét gợi cảm đặc trưng, là niềm tự hào của người Huế. Đó là sông Hương, núi Ngự, là thôn Vỹ Dạ, bến Văn Lâu, dốc Nam Giao, cầu Tràng Tiền, chợ Đông Ba, chùa Thiên Mụ. Huế với biết bao lăng tẩm đền đài trầm mặc cổ kính muôn đời

Mưa Huế

Nhiều người nghĩ mưa ở đâu mà chẳng như nhau. Nhưng thực sự không phải thế. Bất cứ ai đã từng ở Huế vào những ngày mưa, sẽ thấy rằng mưa Huế rất buồn. Không gian thì vắng vẻ, nhịp sống chậm, cỏ cây lúp xúp, xa xa là những thành quách đền đài rêu phong như thể được bao phủ bởi màn mưa dai dẳng. Theo các chuyên gia khí tượng học, trong tất cả các tỉnh thành từ Bắc vào Nam, Huế là nơi có lượng mưa cao nhất với 2868mm/lần. Thi sĩ Nguyễn Bính đã phải thốt lên: Trời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy ngày/ Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói/ Trời mờ ngao ngán một loài mây/ Tràng Tiền vắng ngắt người qua lại/ Đập Đá mênh mang bến nước đầy… Điệp khúc “trời mưa ở Huế” còn trở đi trở lại thêm ba lần nữa trong suốt bài thơ, cộng thêm hai câu tuyệt bút về uống rượu trong mưa: Sầu nghiêng mái lá mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay. Mưa Huế sau này còn đi vào những câu lục bát nổi tiếng của các thi sĩ tên tuổi: Tôi về xứ Huế mưa sa/ Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa/ Tôi về xứ Huế chiều mưa/ Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu (Gửi Huế - Nguyễn Duy), Chiều mưa phố Huế một mình/ Biết đâu là chỗ ân tình đến chơi (Đồng Đức Bốn). Trong nhạc, ca khúc Mưa trên phố Huế của nhạc sĩ Minh Kỳ (cháu đời thứ 5 của vua Minh Mạng) hơn nửa thế kỷ trôi qua vẫn làm thổn thức bao trái tim: Chiều nay mưa trên phố Huế. Biết ai đã quên ai rồi. Hạt mưa rơi vẫn rơi, rơi đều cho lòng u hoài. Ngày xưa mưa rơi thì sao? Bây chừ nghe mưa lại buồn. Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn.

Sông Huế

Viết về Huế, nhà thơ Bùi Giáng chỉ dùng đúng hai câu lục bát, tưởng như có chút hài hước mà quá đỗi cô đọng thấm thía: Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. Câu lục bát hay ở chỗ, thứ nhất - nó mô phỏng lời nói người con gái Huế, từ ngữ điệu, cách xưng hô (“dạ thưa”) cho đến âm hưởng chung của toàn câu thơ nhẹ mát như cơn gió bởi bốn thanh bằng liên tiếp khép lại câu bát. Thứ hai - trong câu lục bát có ba địa danh, mỗi địa danh giữ một âm vực cao độ khác nhau: Huế (thanh sắc – âm vực cao nhất trong 6 thanh), Ngự (thanh nặng – âm vực thấp nhất trong 6 thanh), Hương (thanh không – chiếm lĩnh âm vực đoạn giữa so với hai thanh còn lại). Ba địa danh – ba cái tên hiện lên sừng sững chiếm lĩnh không gian và thời gian - đã hình thành một kết cấu thật đẹp mắt và bỗng mang được một giá trị biểu tượng về sự trường tồn vĩnh cửu với thời gian. Sông Hương núi Ngự như một cặp đôi đi liền với nhau, cùng xuất hiện trong vô số những bài hát nổi tiếng về xứ Huế: Ai ra xứ Huế thì ra. Ai về là về núi Ngự. Ai về là về sông Hương. Nước sông Hương còn thương chưa cạn ơ. Chim núi Ngự tìm bạn bay về. Người tình quê ơi! Người tình quê, thương nhớ lắm chi? (Ai ra xứ Huế - Nhạc và lời: Duy Khánh), Người ơi! Nếu còn vầng trăng soi dòng Hương, núi Ngự còn thông reo chiều buông tôi vẫn còn thương (Thương về miền Trung – Nhạc và lời: Châu Kỳ).

Có một sự gặp gỡ tương đồng thú vị khi viết về sông Hương trong văn và nhạc, và cả hai tác phẩm đều nổi tiếng. Đó là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa 12 hơn mười năm nay và nhạc sĩ Trần Hữu Pháp với ca khúc lừng danh nhất của ông Dòng sông ai đã đặt tên. Với bài bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là một áng văn giàu chất thơ, tích hợp trong nó cả những kiến thức về lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, thể hiện sự tài hoa uyên bác của nhà văn. Dòng Hương được miêu tả trong vẻ đẹp đa dạng, lúc thì trữ tình êm ả hiền hòa như một “thiếu nữ dịu dàng duyên dáng”, lúc thì phóng khoáng, man dại, rầm rộ, mãnh liệt như “bản trường ca của rừng già”, có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”, lúc lại biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hoặc có khi vui tươi, có khi như một mặt hồ yên tĩnh... Dòng sông trong ca từ của Trần Hữu Pháp cũng là dòng sông chảy theo một chiều dài lịch sử của dân tộc và số phận mỗi cá nhân. Và điều quan trọng là dòng sông ấy luôn in sâu trong tâm hồn người Huế, như thể trở thành một phần máu thịt: Dòng sông ai đã đặt tên. Để người đi nhớ Huế không quên. Xa con sông mang theo nỗi nhớ. Người ở lại tháng năm đợi chờ. Nhiều địa danh khác của Huế cũng đã đi vào văn chương nghệ thuật, mang tính điển hình rất cao, trong đó phải kể đến thôn Vỹ Dạ: Sao anh không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Hàn Mặc Tử), Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn/ Biếc che cần trúc không buồn mà say (Bích Khê).

Người Huế

Vẻ đẹp của người con gái Huế với những tà áo dài tha thướt đã đi vào không biết bao nhiêu lời thơ ý nhạc. Đó có thể là một tà áo tím như trong sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Nguyên: Một chiều lang thang trên dòng Hương giang. Tôi gặp một tà áo tím, nhẹ thấp thoáng trong nắng vương. Màu áo tím ôi luyến thương. Màu áo tím ôi vấn vương. Đó có thể là một màu áo trắng như trong thơ của Thu Bồn: Áo em trắng hỡi thuở tìm em không thấy/ Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền/ Nón rất Huế mà đời không phải thế/ Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng (Tạm biệt Huế). Vẻ đẹp tha thướt của tà áo dài cùng sự e ấp mềm mại của những kiều nữ sông Hương cũng đã được Nguyễn Bính tả trong bài thơ Tựu trường: Những nàng kiều nữ sông Hương/ Da thơm là phấn, môi hường là son/ Tựu trường san sát chân thon/ Lao xao nón mới màu sơn sáng ngời/ Gió thu cứ mãi trêu ngươi/ Đôi thân áo mỏng tơi bời bay lên/ Dịu dàng đôi ngón tay tiên/ Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường.

Dĩ nhiên, bên cạnh những sắc màu tươi tắn rạng rỡ cùng là không ít những số phận buồn. Có nỗi buồn man mác nhớ nhung: Có người cung nữ họ Vương/ Lên lầu nhìn dải sông Hương nhớ nhà (Thu rơi từng cánh – Nguyễn Bính). Nhưng cũng có khi là những thân phận bị đắm chìm, xô đẩy, vùi dập trong thơ Tố Hữu: Em buông mái chèo/ Trên dòng Hương giang/ Trăng lên trăng đứng trăng tàn/ Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng/ Thuyền em rách nát/ Mà em chưa chồng/ Em đi với chiếc thuyền không/ Khi mô vô bến rời dòng dâm ô. Vẫn là những thân phận ấy, đi vào thơ Văn Cao, thấy nhiều hơn những đồng điệu sẻ chia và sau cùng là nỗi quyến luyến không dứt. Ông trìu mến gọi người kỹ nữ trên sông Hương là phấn nữ: Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi/ Từng canh trời điểm một sao rơi… Em cạn lời thôi anh dứt nhạc/ Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh/ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh (Một đêm đàn lạnh trên sông Huế).

Những ai đã từng yêu một người con gái Huế thì mới thấm thía cái phút biệt ly trên đất cố đô, thấy đau đáu cồn cào trong lòng một ánh mắt buồn thương xa vắng không muốn rời: Màu mắt Huế buồn rưng rưng. Khiến cho anh suốt đời không quên. Ôi mắt thơ đẹp ai oán mà phong ba vẫn luôn đón chờ. Tàn mùa đông trên bến sông. Đôi mắt buồn tiễn biệt anh đi. Chiều mây tím giăng mắt sầu. Xa dưới mưa tiếng vọng đò đưa (Mắt Huế xưa – Nhạc và lời: Quốc Dũng - Đinh Trầm Ca). Nỗi nhớ nhung người con gái Huế sẽ còn theo mãi tâm hồn người nghệ sĩ, một ngày chia tay, một lần quay lại kiếm tìm nhau mà chẳng còn bao giờ thấy được: Sông Hương nước chảy thuyền trôi lững lờ. Em trao nón đợi và em hẹn hò… Trở lại Huế yêu lần theo ân tình câu hát. Tìm người con gái áo tím mộng mơ. Sông Hương tấp nập tìm răng được chừ. Không nguôi kỷ niệm vòng tay học trò… (Huế thương – Nhạc và lời: An Thuyên). Và nỗi nhớ nhung ấy có thể lặn sâu trong lòng thành một lặng câm vô vọng, nhưng nỗi vô vọng ấy lại được giữ gìn mãi mãi như một báu vật thiêng liêng: Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt/ Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya/ Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng/ Anh trở về hóa đá phía bên kia (Thu Bồn).

Cố đô Huế, từ cảnh đến người, từ người đến cảnh, mang những vẻ đẹp thật đặc trưng không nơi nào có. Như lời bài hát của nhạc sĩ Trương Tuyết Mai phổ thơ Đỗ Thị Thanh Bình (Huế tình yêu của tôi), đó là vẻ “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, “sâu lắng”, là “sẻ chia đắng cay gian khổ” mà vẫn “đi lên kiên cường”. Huế cũng là nỗi buồn man mác đã thấm vào từng giọt nước sông Hương mà người thi sĩ đôi khi muốn được hòa tan mình trong đó bởi tình yêu thiết tha quê hương xứ sở: Vắng khách đôi khi về chở gió/Không tiền, không bạc vẫn cười vang/Dừng lại bên cầu nghe nước chảy/Chợt thấy mình: một giọt nước Hương Giang (Giọt nước Hương giang – Phương Xích Lô). 

ĐỖ ANH VŨ
Nguồn: THV



Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2019

TRẦN THANH GIAO - NHƯ CÁNH HẠC BAY

Cái tin ông ra đi vào ngày 10 Tháng Chạp khiến tôi bị bất ngờ. Tôi không thể tin nổi một cái cây cổ thụ đã đổ xuống, vận vào lời Thôi Hiệu, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản (Hạc vàng một đi không trở lại), bài thơ sinh thời Trần Thanh Giao hằng yêu thích và lấy đó làm dấu tích của cuốn tiểu luận phê bình cuối cùng, dồn tụ nhiều tâm huyết…
Nhà văn Trần Thah Giao (bên phải) và nhà thơ Bùi Tuyết Mai

1. Dẫu biết quy luật một đời người cuối cùng rồi cũng phải trở về với cát bụi, nhưng cái tin nhà văn Trần Thanh Giao quy tiên đối với tôi vẫn là quá đột ngột. Tôi không thể tin được cây đại thụ của văn nghệ, báo chí Việt Nam đã giã biệt cõi đời này. Tôi cảm thấy ông vẫn còn đấy. Con người ông nhỏ thó và rắn rỏi, khuôn mặt với những nếp nhăn của thời gian và tuổi tác vẫn không giấu được đôi mắt tinh anh, ánh nhìn nhạy bén cùng với nét cười răng khuyết rất đặc biệt. Vẫn là người đàn ông mà sự hiểu biết toát ra từ ánh nhìn ban đầu bạn tiếp xúc đến giọng nói chậm rãi, giàu trải nghiệm, cẩn trọng trong từng câu chữ và luôn luôn hài hòa, với phong thái lịch thiệp của một người đã kinh qua Tây học.

Nhớ lần đầu gặp ông vào năm 1996 tại Hà Nội, hai năm trước khi tôi được là đại biểu Hội nghị Những người viết văn Trẻ toàn quốc lần thứ V (1998). Chúng tôi cùng uống trà ở một tiệm trà thanh lịch, nằm khá sâu trong một cái ngõ nhỏ, gần với hồ Trúc Bạch. Trước đó, tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm của ông. Lúc bấy giờ, ngồi trước mặt tôi đích thực là nhà văn Trần Thanh Giao bằng xương bằng thịt, và chúng tôi bàn về những bài báo, bài ký, tiểu luận hoặc phê bình văn chương Đông, Tây, kim, cổ của ông. Văn của ông thật rất ăn khớp với người. Giọng cười của ông cũng thật đa dạng, lúc thì mủ mỉ kín đáo, lúc lại cao hứng như thác nước đổ.

2. Trong những tranh luận bên ly trà của chúng tôi, có khi cứ trở đi, trở lại vấn đề “nóng” của đời sống văn nghệ: Để có tác phẩm hay. Tôi nhớ những đúc kết của ông đọng lại. Người-Văn ấy đã tìm thấy ngọc và lấy đó làm ánh sáng để soi chiếu vào những trang viết của mình, và cũng để phần nào giúp cho những người bạn văn cùng chia sẻ, bàn luận và lựa chọn cho mình một hướng đi:

- Dẫu biết văn chương là để giãi bày nỗi niềm, số phận, thu hút sự ham mê của người đọc, nhưng giãi bày để làm gì, câu trả lời là để nâng đỡ con người, làm cho nó cao thượng lên chứ không làm cho nó hèn đi, thấp đi.

- Nỗi niềm và số phận của một kiếp người có hàng ngàn, hàng vạn, vẽ ra được đã là khéo, nhưng tư tưởng nhân văn của tác phẩm về những nỗi niềm và số phận, mới là cái khó tìm, khó vẽ, mới là cái có giá trị nhất trong văn chương.

- Vẽ mây, vẽ gió được đã khéo, nhưng vẽ cho đến mức Non cao non thấp mây thuộc/ Cây cứng cây mềm gió hay như Nguyễn Trãi mới thật khó, mới thật hay, mới là nét vẽ của bậc thiên tài. Cho nên từ xưa, hiện nay và sau này vẫn vậy, văn chương hay, nhất là văn xuôi, không thể chỉ có nỗi niềm và số phận, mà trên nỗi niềm và số phận là một tư tưởng nhân văn sâu sắc, và những vẻ đẹp làm mê mẩn lòng người.

- Đã đến lúc cùng nhau nêu ra định nghĩa: tác phẩm hay là tác phẩm làm rung động sâu sắc, lâu bền trái tim người thưởng thức vì những giá trị chân thiện mỹ mà nó chứa đựng.

Năm 2015, ngay trong Đại hội Nhà văn, tôi nhận được món quà quý của ông. Đó là cuốn Tiểu luận phê bình của Trần Thanh Giao, Cánh hạc & Tiếng chuông, Nxb Hội Nhà văn, 2014. Bìa phụ là dòng chữ bút mực còn tươi rói, ông đề Thân tặng Bùi Tuyết Mai và cẩn thận ghi Hà nội 2015 rồi ký tên. Cùng với cuốn sách là một chiếc đồng hồ nữ mạ vàng rất đẹp, rất thanh lịch, viền kim loại màu vàng, mặt và dây đeo màu đỏ nâu tía, lấp lánh ánh bạc ẩn phía trong khung kim giây chạy, là tháp Effel. “Anh mua nó trong một chuyến thăm Thủ đô Paris, nước Pháp. Tặng em!” Tối hôm đó, rất khuya, sau khi ngồi cùng cánh nhà văn trẻ từ miền núi phía Bắc, tôi mới lần giở từng trang cuốn cảo thơm này của người bạn vong niên. Tôi đã thức luôn đến sáng với cuốn sách, tìm thấy trong đó những ký ức về cuộc trao đổi của chủ nhân cuốn sách với mình từ thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, hiện cũng nằm trong cuốn sách.

Cuốn sách này của ông, tôi luôn luôn mang theo để đọc mỗi khi có thì giờ. Và chiếc đồng hồ ấy, cũng trở thành vật bất ly thân của tôi, kể từ khi ông tặng.

3. Ông đặc biệt yêu thích cuốn Mái Tây của Vương Thực Phủ. Lại nhớ, một dịp ông ra Hà Nội họp, chúng tôi có hai ngày đi lên Mường. Đi lên tỉnh Hòa Bình, một địa danh nổi tiếng của người Việt cổ, với ông đây là một dịp “rất đáng để tiêu thời gian vào đó!”. Chúng tôi đi đại tứ Mường: Nhất Bi (huyện Tân Lạc), nhì Vang (huyện Lạc Sơn), tam Thàng (huyện Kỳ Sơn và Cao Phong), tứ Động (huyện Kim Bôi), bốn vùng Mường cổ nhất, lớn nhất của Việt Nam tại tỉnh Hòa Bình. Cũng trong chuyến đi này, tôi được biết cái bút danh Song Văn của anh là do anh rất yêu thích Mái Tây của Vương Thực Phủ mà ra. Ông khuyên tôi nên đọc cuốn ấy, vì cái kịch ấy cũng đã hay, nhưng lời bình của Kim Thánh Thán sau mỗi chương là những chỉ dẫn vô cùng hữu ích cho những người viết văn có tài năng - những người “thợ trời”.
Nhà văn Trần Thanh Giao (bên phải) vànhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ

4. Mỗi lần tôi có tác phẩm được đăng Báo Văn Nghệ, hoặc trên các diễn đàn, ông đều đọc thấy và là người cho nhận xét. Chúng tôi có những người bạn chung, một trong số họ là nhạc sĩ tài danh Nguyễn Tài Tuệ. Lần gặp gỡ gần đây nhất của chúng tôi cũng tại Đại hội Nhà văn (2015). Buổi tối, chúng tôi đến thăm nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ tại nhà riêng, phố Khương Trung, Hà Nội. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy hai ông già ôm nhau một cách vô cùng mừng rỡ và đằm.

Hóa ra, họ từng quen và dõi theo nhau từ năm 1976. Khi ấy, nhà báo Trần Thanh Giao đã gặp và phỏng vấn nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ, Trưởng phòng Nghệ thuật của Đoàn Ca Múa Nhạc Việt Nam, nhân dịp nhạc sĩ đưa đoàn văn nghệ sĩ, diễn viên vào Thành phố Hồ Chí Minh biểu diễn mừng một năm thắng lợi, non sông thu về một mối.

Hai ông đều thuộc hàng “Tây học trong nước lớp đầu” từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Trần Thanh Giao học ở Cần Thơ, Nguyễn Tài Tuệ học ở Sài Gòn. Cả hai đều phát âm và dùng rất chính xác văn phạm tiếng Pháp, nhưng lại rất thống nhất với nhau về quan điểm, quan niệm sáng tác. Do có công cụ ngôn ngữ tiếng Pháp trong tay, đồng thời lại có vốn cha mẹ để lại là chữ Hán và chữ Nôm, cả hai có điều kiện để tìm đọc sâu, học hỏi kỹ các giá trị văn học và âm nhạc của phương Đông, phương Tây. Trong cuộc gặp gỡ hiếm hoi ấy, tôi đã được nghe tiểu kết của Trần Thanh Giao: Nếu như cái thuyết cốt lõi của văn học phương Tây là chủ nghĩa nhân văn (humanisme; humanism) thì trong thơ văn Việt Nam có thuyết “nhân nghĩa” (humanité et loyauté; bennevolence and righteousness) đồng thời được bổ sung thêm các giá trị nhân bản khác.

Nếu cứ dõi theo hệ thống các tác phẩm của Trần Thanh Giao - Dòng sữa (truyện ngắn, 1962); - Đi tìm ngọc (truyện 1964, 1972, 1987, 2002); - Cầu sáng tiểu thuyết 1976, 1985); - Đất mới vỡ (tiểu thuyết 1978, 1981); - Giữa hai làn nước (truyện 1979); - Sao Mai gần gũi (truyện và ký 1983); - Một vùng sông nước (truyện 1985); - Thị trấn giữa rừng Sác (bút ký 1985); - Bầu trời thềm lục địa (bút ký 1986); - Câu chuyện một chiều thứ bảy (truyện ngắn 1987); - Một thời dang dở (tiểu thuyết 1988, 1992); - Thời áo trắng (tiểu thuyết 1995, 2002); - Tuyển tập truyện ngắn (2002); - Ai vượt Cửu Long Giang (bút ký 2003); - Ai tri âm đó… (phê bình, tiểu luận, 2003), - Văn học TP.HCM 1975 – 2005 (nghiên cứu, khảo luận…, 2008), - Chuông chùa (truyện ngắn 2011); - Cánh hạc & Tiếng chuông (phê bình, tiểu luận, 2014)… Đồng thời, cũng luôn luôn nghe vang lên trên làn sóng các phương tiện đại chúng những tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc của Nguyễn Tài Tuệ (trên 30 tác phẩm) thắm đượm chất trữ tình và nhân văn được phát triển từ âm nhạc dân gian Việt Nam đi rất xa…  có thể thấy rất rõ ý thức, trách nhiệm sâu sắc của họ với đất nước, với dân tộc. Tôi vẫn nhớ, Trần Thanh Giao đã nhấn mạnh với Nguyễn Tài Tuệ trong buổi tối đáng ghi nhớ ấy: Trong các tác phẩm thanh nhạc của anh, tôi thấy những bán cung, nửa cung lẽ ra là rất Tây, vậy mà anh đưa vào cứ ngọt và vô cùng thuần Việt trongMùa xuân gọi bạn, Suối mường Hum còn chảy mãi, Xa khơi, Mơ quê, trong Tiếng hát giữa rừng Pác Bó v.v.. Có cả câuxuống xề của cải lương trong Xôn xao bến nước nữa! Rồi những bản Rondo sonata, concerto, operette, v.v.. của ông đậm đà chất nhạc Việt. Tóm lại, nếu nói cách tân về hình thức thì cha ông ta cũng đã làm nhiều, và làm thành công… Nếu ta đừng sùng ngoại, đừng hám của lạ, tự hào về cha ông mình thì ta cũng có thể nêu ra “luận thuyết”, đóng góp vào những thuyết chung, có ích cho sự phát triển nhận thức của con người về bản chất của văn học nghệ thuật và cuộc sống.

Trần Thanh Giao, Nguyễn Tài Tuệ và tôi, cả ba cùng yêu thích Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ, một tác phẩm thơ “siêu hình thức” cách nay đã hơn 2000 năm. Rồi tiếp sau đó, là những kiệt tác nhân loại như Iliade, Odyssée, cùng với các tác phẩm của những tác gia hàng đầu của nhân loại như Shakespeare, Cervantes, Dante, Goethe, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Để qua việc đọc những kiệt tác đó mà bồi đắp chiều sâu nội lực cho mình trong sáng tạo và tiếp nhận những giá trị mới của văn học nghệ thuật.     

5. Cái tin ông ra đi vào ngày 10 Tháng Chạp khiến tôi bị bất ngờ. Tôi không thể tin nổi một cái cây cổ thụ đã đổ xuống, vận vào lời Thôi Hiệu, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản (Hạc vàng một đi không trở lại), bài thơ sinh thời Trần Thanh Giao hằng yêu thích và lấy đó làm dấu tích của cuốn tiểu luận phê bình cuối cùng, dồn tụ nhiều tâm huyết. Một khoảng trống của văn đàn không bù đắp được. Tuy biết từ nay tôi sẽ không bao giờ nhận được những dòng cảm xúc tươi rói của ông qua email nữa. Tôi vẫn thấy nụ cười trẻ trung của ông. Sự nhiệt tâm xốc vác. Ông vẫn như còn đó, với ba lô, laptop và máy ảnh, sẵn sàng cho một chuyến đi mới.

Hà Nội, những ngày áp Tết Bính Thân 2016
 BÙI TUYẾT MAI
Theo NVTPHCM



Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2019

TS. ĐOÀN HƯƠNG & SỰ “DẠI DỘT” CẦN THIẾT

Tiến sỹ văn học Đoàn Hương một lần nữa lại gây sóng gió trong dư luận, khi bà tham gia một cuộc trò chuyện trên VTV với đề tài chính xoay quanh đề xuất “tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai”.

Bà đã nói về việc Anh rời EU và từ đó, đưa ra nhận định tầm quan trọng của Anh ngữ sẽ không còn lớn nữa, do đó nếu chỉ dồn vào tiếng Anh là không ổn.
Tiến sỹ văn học Đoàn Hương

Thực tế, điều bà Đoàn Hương nói là chưa chuẩn, chưa trúng, chưa đúng nhưng dù gì nó cũng chỉ là giới hạn của một nhận định cá nhân mang tính chủ quan. Và tất nhiên, khi người đọc, người xem cảm thấy cái không đúng, không trúng ấy nó nghịch lỗ tai mình, họ sẽ cảm thấy khó chịu. Từ cái khó chịu đó, bà Đoàn Hương thành đối tượng bị “ném đá” là điều cũng dễ hiểu.

Sẽ có người nói bà Đoàn Hương dại dột khi nhận lời các cuộc phỏng vấn, trò chuyện dễ thành tâm điểm của sự cuồng nộ trong dư luận. Điều họ nói có lý. Bà Đoàn Hương đã từng tham dự cuộc phỏng vấn nói về "cải tiến" chữ của ông Bùi Hiền. Dù bà không bảo vệ cái đề án ấy, thậm chí bà còn chỉ ra những cái chưa đúng của nó, nhưng bà đề cao thái độ làm khoa học của ông Bùi Hiền. Song, sự khách quan của bà Đoàn Hương không đủ bảo vệ bà trước dư luận. Rất may, hình như bà không chơi Facebook nên cũng chẳng bị ảnh hưởng từ nó là mấy.

Nhưng nhìn vào cái cách bà Đoàn Hương lựa chọn cuộc phỏng vấn và đối thoại, tôi phải thừa nhận rằng bà đã có một sự "dại dột cần thiết". Thậm chí, tôi xem hành động ấy của bà là dũng cảm. Bà đã dũng cảm lên tiếng đúng lĩnh vực của mình, khi các đơn vị phỏng vấn, đối thoại với bà đang mong mỏi nhất một ý kiến của một chuyên gia. Mà nếu nói về ngôn ngữ, rõ ràng bà Đoàn Hương là chuyên gia. Bà là một chuyên gia về Ngữ văn, với học vị tiến sỹ đàng hoàng. Và bà khiến tôi đặt câu hỏi: “Các chuyên gia hiện nay đang ở đâu khi xã hội cần họ nhất?”.

Trong một cuộc tranh luận khoa học trên mạng xã hội gần đây của một nhóm những người trẻ yêu một môn khoa học có sự chỉ trích rất gay gắt (bằng học thuật) đối với vài bài viết về khoa học của một người trẻ nổi danh. Trên diễn đàn, nhiều người chỉ ra rằng các giới thiệu khoa học của người trẻ nổi danh kia là ngụy khoa học, với những tài liệu không chính xác được sử dụng làm nền tảng.

Thậm chí, họ còn chỉ ra được những chỗ nào là đạo văn, và họ cho rằng sự nguy hiểm của các bài viết giới thiệu khoa học thường thức thiếu chuẩn xác ấy lại tạo ra niềm tin vững chắc đối với những độc giả hâm mộ của người trẻ kia, để họ cho rằng đó chính là khoa học chân xác. Lo ngại thứ ngụy khoa học gây nên những hiểu biết sai lệch trong cộng đồng, họ đã lên tiếng và từ đó tạo ra tranh cãi dữ dội giữa hai phe: bên chỉ trích và phe cổ động viên hâm mộ của tay bút trẻ kia.

 Đọc cuộc tranh cãi ấy, tôi thấy mình nên có chút trách nhiệm và tôi đã liên hệ với một tiến sỹ đúng chuyên ngành khoa học ấy. Tôi nhờ tiến sỹ này tham gia bằng một bài viết minh định chân-ngụy để chấm dứt sự tranh cãi. Tôi đã nghĩ rằng bằng uy tín lâu năm của mình, ý kiến chuyên gia của vị tiến sỹ nọ sẽ có sức nặng. Nhưng điều tôi nhận được chỉ là sự từ chối khéo, đại ý “bận lắm, với cả ngại tham gia mấy việc như thế”.

Điều khiến tôi thất vọng hơn cả là vị tiến sỹ nọ thực ra không hề bận rộn gì. Vị ấy đã nghỉ hưu và ngày nào cũng lên Facebook bày tỏ quan điểm của mình về mọi vấn đề xã hội, từ chính trị đến thể thao, đa số toàn những lĩnh vực mà vị ấy thiếu thông tin, dữ kiện và thậm chí là cả kiến thức.

Từ câu chuyện của vị tiến sỹ tôi quen và của bà Đoàn Hương, tôi nhận ra rằng đang tồn tại một chủ nghĩa lạm bàn thái quá trong xã hội đương thời. Cái gì chúng ta cũng cấp cho mình cái quyền bàn luận, bình luận bất chấp ta có hiểu biết đủ về nó hay không. Trong khi đó, việc mình rành rẽ nhất thì mình lại im lặng, thờ ơ đến mức vô trách nhiệm.

Chúng ta cần xem lại chính mình. Để xã hội văn minh hơn, cần lắm những "dại dột" dũng cảm như kiểu của Tiến sỹ Đoàn Hương. Và cần hơn nữa là việc đọc thật kỹ, nghe thật kỹ điều người khác nói, kể cả nó có nghịch nhĩ đến mức nào. Ném hòn đá đi thì dễ, nhưng thu lại hòn đá thì khó. Và hòn đá, nhiều khi nó chuyên chở luôn cả nhân cách của chính mình.

VĂN ĐOÀN
Nguồn: VNCA



Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

ĐỌC THƠ TRẮNG CỦA LA MAI THI GIA

Người đàn bà thơ La Mai Thi Gia, là thơ từ khi mới được sinh ra, lần đầu tiên riêng tư góp mặt với thế giới thơ ca bằng Thơ trắng (NXB Hội Nhà văn, 2017)…
Nhà thơ La Mai Thi Gia

Tựa Thơ trắng của La Mai Thi Gia được lấy từ cảm hứng ý tưởng của nữ sĩ người Pháp Hélène Cixous (bà sinh ra ở Algeria năm 1937). “Dòng chữ trắng” (L’Encre Banche, The white ink) là dụng ngữ nổi tiếng của bà trong bài viết rất có giá trị mang tên Tiếng cười của Medusa (Le Rire de la méduse) ấn hành năm 1975, 1976. Trong bài viết này bà nói: “Bao giờ cũng thế, bên trong người phụ nữ luôn luôn là một chút tốt lành của dòng  sữa mẹ. Nàng viết bằng chữ trắng”.

Và như vậy Thơ trắng là chữ trắng, là tố chất của thân xác cũng như linh hồn của người nữ, là địa hạt riêng tư của họ. Thơ của La Mai Thi Gia cũng thế, là tố chất của thân xác và linh hồn của người đàn bà sinh ra với cái tên nghe đã là thơ.
Tập Thơ trắng của La Mai Thi Gia

Người đàn bà hát thơ như mình là thơ, cắm hoa như mình là hoa.

Người đàn bà cất lên tiếng hát bằng làn da, hát ca bằng thân xác ngân nga, cười khóc mà la mai thi gia.

Người đàn bà, gió trong tóc ngàn xưa phong ba, sóng trong ngực mà nghiêng thuyền lạ, sương trong mắt mà chiêu nắng tà.

Người đàn bà làm thơ cho nàng thôi phôi pha, làm thơ cho nàng quên yêu ma.

Người đàn bà, giọt nước mắt còn lay bay phù sa, giọt sữa ấm còn đong đưa nụ hoa, dòng chữ trắng còn long lanh ngân hà.

Người đàn bà đem chăn gối làm sông làm núi, đem châu thổ nguyên sơ làm ngả ba, đem châu thân huyền bí làm nhà.

Người đàn bà thân thể từng đêm kinh thánh, ngàn năm réo rắt nhã ca.

Người đàn bà, ra đi từ đại dương con gái, xuống đêm đời làm giọt tình, làm giọt thơ pha

Người đàn bà đường tơ bay trong đêm tối, trong âm vang của một nửa là…, và vẹn nguyên trong cõi ta bà

Người đàn bà ném vào lửa những đêm dài tự vắng, trong nắng hồng từ đó bước chân ra.

Người đàn bà thơ La Mai Thi Gia, là thơ từ khi mới được sinh ra, lần đầu tiên riêng tư góp mặt với thế giới thơ ca bằng Thơ trắng (NXB Hội Nhà văn, 2017).

NHẬT CHIÊU
(Lời tựa tập Thơ trắng)



Thứ Tư, 9 tháng 1, 2019

CHẤT VẤN THÓI QUEN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO TRONG THƠ PHAN HOÀNG

Từ tập thơ Tượng tình (1995) đến Hộp đen báo bão (2002) và Chất vấn thói quen(2012), hành trình thơ của Phan Hoàng đã trải qua hàng chục năm lao động miệt mài trên cánh đồng thơ. Để rồi sau mười năm, từ tập thơ Hộp đen báo bão Phan Hoàng xuất bản Chất vấn thói quen chỉ với 36 bài thơ, điều đó cho thấy anh là người rất cẩn trọng với thơ, rất trân trọng người đọc…
Nhà thơ Phan Hoàng

1. Không phải ngẫu nhiên, tập thơ Chất vấn thói quen của Phan Hoàng, (Giải thưởng Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2012), khi xuất hiện trên văn đàn đã tạo một cơn địa chấn trong đời sống văn học với hàng chục bài viết đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng mà theo thống kê chưa đầy đủ trong Chất vấn thói quen - Tác phẩm và dư luận thì có 21 bài như: “Thay đổi cảm hứng bầu trời” của Nguyễn Quyến, “Bốn ấn tượng về Chất vấn thói quen” của Trần Phò; “Một xuất phát mới trong thơ Phan Hoàng” của Đặng Huy Giang; “Giọng thơ hào sảng rất riêng” của Trần Nhã Thụy; “Lao vào mọi dòng xoáy biển đời, chất vấn thói quen” của Hoàng Thụy Anh; “Những cơn bão ký tự ấm trong thơ Phan Hoàng” của Phạm Ngọc Hiền; “Suy nghiệm từ cuộc sống trút vào thơ” của Trần Huy Minh Phương; “Thơ Phan Hoàng tiếng kêu thảng thốt của những nền tảng văn hóa xã hội đương thời” của Hoa Nip; “Cơn bão ký tự mới” của Vũ Thanh Hoa; “Thèm làm một ngọn gió rong chơi” của Anh Thư; “Hà Nội nồng nàn cùng chất vấn thói quen” của Phan Đình Minh; “Nhà thơ Phan Hoàng và người tình ma lực” của Nguyễn Quỳnh Trang; “Phan Hoàng xông đất văn học thủ đô” của Hiền Nguyễn; “Phan Hoàng được tặng khăn trong lễ ra mắt thơ” của Dương Tử Thành; “Nhà thơ Phan Hoàng day dứt với làng quê” của Đào Đức Tuấn; “Nhà thơ – nhà báo Phan Hoàng: “Báo là nghề, thơ là nghiệp”” của Nguyễn Tý và Phùng Hiệu; “Nhà thơ Phan Hoàng: “Chất vấn thói quen” hay là sự chối bỏ các khuôn mẫu” của Bình Nguyên Trang; “Nhà thơ Phan Hoàng: Thơ là cái đẹp hiện hữu tâm hồn mỗi người” của Hàn Thanh Nhân; “Nhà thơ Phan Hoàng: Thơ hay như phụ nữ có duyên” của Loan Trầm. Và cho đến đầu năm 2015, tức sau ba năm tập thơ được xuất bản vẫn tiếp tục có những bài viết về Chất vấn thói quen đăng tải trên báo chí: “Học cách ‘chất vấn’ từ Phan Hoàng của Phan Thuỷ, “Cuộc chiến khắc khoải mười năm vật vã cơn bão chữ” của Quang Hoài…

Các bài viết dù xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau, của những người làm nghề nghiệp khác nhau, sống ở những miền quê khác nhau nhưng đều có sự gặp gỡ chung đó là sự nhận diện về cái mới, cái lạ như một sự bứt phá trong thi pháp thơ của Phan Hoàng. Đó là sự lột xác để từ bỏ những thói quen cũ, cái nhìn cũ, tư duy cũ, một điều cốt tử trong hành trình sáng tạo thi ca, cũng như các lĩnh vực sáng tạo khác trong đời sống xã hội. Bởi, bất cứ một sự vật hiện tượng nào trong đời sống cũng dung chứa trong nó cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thói quen, từ góc nhìn văn hoá cũng hàm chứa trong nó cả hai mặt trên. Nghĩa là có thói quen tốt nhưng cũng có thói quen xấu và việc bỏ được một thói quen xấu cũng như rèn luyện một thói quen tốt là hành trình không đơn giản. Không những thế, việc chất vấn, đối thoại với thói quen của chính mình là một thách thức không dễ vượt qua. Việc Phan Hoàng chọn tiêu đề với một cái tên rất lạ, nghe chẳng thơ chút nào “Chất vấn thói quen” làm tựa đề cho tập thơ của mình, phải chăng cũng là cách tác giả muốn phá vỡ một “thói quen” thường thấy trong sáng tác thơ ca, khi trong các “chợ thơ” tràn ngập các tập thơ với những cái tên nghe “rất kêu”, “rất nổ”, “rất bốc” và… “rất sáo” như: miền yêu, giọt nắng, giọt hoa, giọt mơ, giọt hồng... mà khi đọc thơ chỉ là những con chữ rỗng tuếch, vô hồn, những cảm xúc giả tạo nhưng lại được một số nhà “phê bình” tung hê là “mỹ học” của “cái này, cái khác”... Chính những thứ thơ màu mè, vô vị được PR bởi lối “phê bình xu phụ” kia đã tầm thường hóa giá trị của thơ, làm cho bạn đọc quay lưng với thơ, xa lánh thơ. Rất may, thơ Phan Hoàng không rơi vào trường hợp này. Đọc Chất vấn thói quen không phải câu thơ nào trong tập thơ cũng toàn bích và không phải không còn những chỗ cần được hoàn thiện trong thi giới, trong cảm xúc, trong tư duy thơ. Nhưng có điều chắc chắn ở tập thơ này ta không còn nhận ra cái thi giới quen thuộc của thơ Phan Hoàng trước đây mà đã có một sự lột xác trong bút pháp và tư duy thơ. Chất vất vấn thói quenkhông chỉ là sự chất vấn bản thể, một chất vấn mang tâm thức hiện sinh trước những vấn đề nhức nhối của nhân sinh và phận người mà còn là sự chất vấn thi pháp và tư duy thơ của chính mình để tìm ra chân trời mới cho hành trình sáng tạo thi ca. Ở Phan Hoàng sự tự lột xác này không phải là vấn đề bản năng, tự phát mà hơn hết và trên hết là sự tự ý thức của hành trình dấn thân ở một thi sĩ không bao giờ muốn gặm nhấm mình, muốn “ăn mày dĩ vãng” để “tự sướng”, “tự sung”, “tự kêu”... rồi không bao giờ chịu đổi mới hành trình sáng tạo của mình như anh đã xác quyết: “Một người cầm bút không gì đau khổ hơn là lặp lại chính mình và lặp lại của người khác. Để tránh cái lối mòn ấy, cái thói quen ấy cần có sự dũng cảm. Thói quen lặp lại không chỉ đang chi phối đời sống sáng tạo thi ca, mà nó còn hiện diện trong cả sách giáo khoa văn học lẫn phương pháp giảng dạy của giáo viên môn văn. Tôi gọi đó là thói quen không biết sợ hãi. Bởi nếu biết sợ hãi, ý thức về sự trì trệ của đời sống thơ ca thì những người liên quan phải tìm cách thay đổi, để cái đẹp của thi ca và văn học sinh sôi nảy nở” (Chất vấn thói quen – Tác phẩm và dư luận).

Vâng! Để chống lại thói quen “cần phải có sự dũng cảm” kể cả thói quen “không biết sợ hãi”. Bởi, từ bỏ một thói quen đơn thuần đã khó, từ bỏ một thói quen đã hằn sâu trong tư duy sáng tạo lại càng khó hơn. Ý thức được điều này, Phan Hoàng luôn “chất vấn thói quen” trong tư duy thơ với một hành trình khám phá để luôn làm mới mình, làm cho cõi thơ mình thực sự lấp lánh một vùng ánh sáng của những dự phóng sáng tạo.

Nhiều khi mắc cười tôi chất vấn tôi
tại sao con người cứ tự đánh lừa mình bằng những thói quen
không học nổi con sông biết thích nghi đổi dòng băng băng về phía trước?

                                                                (Chất vấn thói quen)

2. Đọc Chất vấn thói quen của Phan Hoàng, ta thấy những trăn trở về sự thay đổi thói quen trong tư duy thơ là một tâm thức hiện sinh luôn ám ảnh hành trình sáng tạo thơ của anh. Và những cảm hứng sáng tạo này được thể hiện qua sự kiến tạo thế giới thi ca của tác giả từ việc chọn lựa thi đề, giọng điệu, ngữ ngôn, ảnh hình, cấu trúc mỗi bài thơ và của toàn bộ tập thơ.

Và có thể nói Chất vấn thói quen là một diễn ngôn có tính đa nghĩa, là một “văn bản dở dang” nhằm đối thoại với người đọc về những vấn đề của đời sống để tìm sự sẻ chia, để cho những con chữ vô hồn kia trở thành một tín hiệu thẩm mỹ kết nối thi nhân và độc giả. Đây cũng là ý thức về vai trò của người đọc trong tiếp nhận văn học, một điều mà không phải người cầm bút nào cũng nghĩ đến. Điều nảy cho thấy sự thay đổi hệ hình trong tư duy thơ của Phan Hoàng mà những bài thơ như: “Chữ nghĩa thị trường”, “Cơn bão ký tự mới”, “Văn bản dở dang”, “Chất vấn thói quen”, “Tình yêu tiếng mẹ dở dang”... là một minh chứng cho sự đổi thay này...
Chất vấn thói quen và các tập thơ khác của Phan Hoàng

Thơ ca bao giờ cũng là tiếng gọi thê thiết đối với người đọc và sự đồng vọng của tiếng gọi từ người đọc sẽ là “tiếng chim gọi đàn” làm lay động vũ trụ thi ca. Vì vậy, có thể xem bài thơ “Văn bản dở dang” là tuyên ngôn nghệ thuật cho hành trình sáng tạo thơ Phan Hoàng khi nhà thơ biết “chất vấn”, biết từ bỏ “thói quen” lỗi thời trong tư duy của lối thơ ca minh hoạ đã từng là một “lực cản” đối với sự vận động và phát triển của thơ ca ở một thời chưa xa. Và trong một ý nghĩa nào đó, đây cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời hậu chiến đang đi tìm một bầu khí quyển mới cho vũ trụ thi ca để “đoạn tuyệt” với “thói quen” của tư duy thơ sáo mòn, xơ cứng, công thức nhưng lại nhân danh quá nhiều những điều huyễn hoặc ngoài văn chương để biện mình cho sự trì trệ làm cản trở sự đổi mới thi ca.

Mọi nền văn minh hình như phát tích từ khoái lạc giấc mơ ánh sáng vô thức chống lại thói quen kỹ năng bóng tối ý thức
kỹ năng nhân danh tiến bộ gặm nhắm từng khoảnh khắc tự nhiên sự sống

Vượt lên đau đớn và thăng hoa
tôi tự tại giấc mơ tôi
mưa ban mai lặng lẽ gióng chuông gọi hồn tận thế
những con chữ như chiến binh chuyển dịch văn bản thơ mãi mãi dở dang

văn bản vô ngôn
văn bản tinh huyết
văn bản ma lực
tâm chấn tín hiệu khoái cảm

Đắm chìm sâu giấc mơ khoái lạc
đắm chìm sâu văn bản dở dang
tôi phát hiện tôi
khác xa dần
xa dần
cánh đồng thâm canh cảm xúc con trâu cái cày
khói lam mây xám ăn quẩn chái bếp thiếu gạo của mẹ
dàn đồng ca hát nhép tân cổ giao duyên mùi mẫn cởi áo trao nhau

Cơn hồng thuỷ khoái cảm âm thầm nổi lên
kỹ năng dục vọng trang phục mỹ từ mục ruỗng bị đánh đắm
từng đợt sóng tín hiệu bụi vàng ký ức dâng tràn 

                                (Văn bản dở dang)

Ý thức về sự đổi mới thi pháp và thay đổi điểm nhìn nghệ thuật trong sáng tạo thi ca đã tạo cho Phan Hoàng một quyết tâm chống lại căn bệnh sáo mòn, bảo thủ của nếp tư duy già nua để vươn đến một khát khao sáng tạo.

tẩy xoá nếp nhăn tư duy già nua
hằn sâu gương mặt rỗ nhàu trái đất
rỗ nhàu đúc khuôn thần đồng sáng tạo

Những lúc bay trên đỉnh thăng hoa
lơ mơ thấy mình
hào phóng chàng trai độc quyền cánh rừng nguyên sinh
rực hương thiếu nữ
ném phăng kỹ năng dục vọng trang phục mục ruỗng
bồng bềnh ngọn lửa trong ngần khoái lạc
từng đợt sóng tín hiệu kỳ bí dâng tràn
va đập chín chiều ký ức
đánh thức bụi vàng lãng quên

Song, đó là khát khao sáng tạo đích thực chứ không phải là sự “sáng tạo” của những trò làm xiếc ngôn từ với các câu thơ mà ở đó chỉ là những con chữ vô hồn, khô khốc, nhạt nhẽo không gắn với thân phận con người, với nỗi đau của cuộc sống nhân sinh, chỉ vật vờ như chiếc bóng mà khi tiếp nhận không để lại trong tâm cảm, tâm thức người đọc một chút ấn tượng nào.

Vật vờ như ngọn gió vô hình
trong thế giới ảo
lớp lớp ký tự vô hồn
nhà nhà nhốn nháo
những ký tự thiếu tư duy số phận

           (Cơn bão ký tự mới)

Vì vậy, đọc Chất vấn thói quen của Phan Hoàng ta luôn bắt gặp trong cảm thức của thi nhân một sự khắc khoải đến đớn đau trước những cái lỗi thời, ấu trĩ, đang mê hoặc con người, với những “bảng vàng bia đá” hư ảo và giả tạo, đang là một thứ xiềng xích vô hình và hữu hình trói buộc / huỷ hoại mọi sáng tạo của con người không chỉ trong lĩnh vực thơ ca mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Đời người chỉ một gang tay
sao tự trói mình xích xiềng lê dài giá trị bia đá?

                                      (Văn bản dở dang)

Và khát vọng sáng tạo trong thơ Phan Hoàng đã trở thành một tuyên ngôn sống mang tâm thức hiện sinh của những con người không chấp nhận sự nhàm chán đến cũ kỹ của lối tư duy giáo điều, mù xám mà một số người đang sử dụng để tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc người khác. Hãy biết thích nghi với cái mới để tiến về phía trước, sáng tạo những câu thơ mang tính dự báo, tính nhân văn sâu sắc. Đó là một yếu tính của thi ca mà thi nhân cần thấu triệt chứ không phải là những tư tưởng giáo điều huyễn hoặc. Vì thế, cần có một cơn “đại hồng thuỷ” để thay đổi nếp tư duy lỗi thời trong hành trình sáng tạo thi ca cũng như mọi hành trình sáng tạo khác của cuộc sống, đó cũng là điều ám ảnh tâm thức thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen.

Làm sao bùng lên nhiều cơn hồng thuỷ
dâng sóng tín hiệu đỉnh khoái
cuốn phăng những kho văn bản mộng mị ngủ muộn
những kho văn bản ấu trĩ già cỗi
những kho văn bản hư danh giả dối
khủng bố dòng chảy tự do ngôn từ
ám sát khát khao chồi xanh ý tưởng
đe doạ cánh rừng nguyên sinh rực hương thiếu nữ 
                                          căng tràn văn bản nhựa sống tương lai

                                                              (Văn bản dở dang)

Chính khát khao sáng tạo này là chất xúc tác làm nên sự đổi mới thi pháp thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen. Vì thế, trong tập thơ, ta bắt gặp nhiều bài thơ mới / lạ thể hiện phẩm tính đổi mới trong hành trình sáng tạo thơ của tác giả. Đó là những bài thơ: “Mặt trời trong ngôi nhà thân thuộc”; “Cái chết đen và vũ khúc trắng”; “Bóng tối đang nuốt chúng ta”; “Tiếng thì thầm” “Cái chết của bạo chúa”; “Tôi đang ở đâu?”; “Thèm làm ngọn gió tự do”... Và trong các bài thơ này có những câu thơ đầy ám gợi luôn làm ta khắc khoải, trở trăn...

Chiều ăn phố sực mùi khoai lang nướng
gió hú nhớ đồng thơm dậy giấc cố hương 

                                   (Ly hương gió)

Hay:
        
Thì thầm giao hưởng bất tận
tuần hoàn qua những đại dương phận người lênh đênh
cuốn cánh buồm tôi trôi mê mải hải lưu buồn
đau những chân trời tư tưởng tật nguyền
câu thơ neo bờ nước mắt

                                (Tiếng thì thầm)

Để rồi, từ những khắc khoải mang tâm thức hiện sinh, nhà thơ tự “chất vấn” về sự hiện hữu của bản thể, về sứ mệnh của người cầm bút, sứ mệnh của văn chương trước những vấn đề nóng bỏng của hiện thực đời sống đang đặt ra cho thơ ca, rất cần sự dấn thân của người nghệ sĩ. Đây cũng là một trong những cảm hứng chi phối hành trình sáng tạo trong thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen mà người đọc có thể cảm nhận từ những sẻ chia đầy trách nhiệm của người cầm bút trước những “cuộc bể dâu” từ “những diều trông thấy”...

Tôi đang ở đâu đất nước sinh từ hồn thiêng nghĩa sĩ vô danh?
Đất nước dãi dầu hạt gạo anh hùng, xảo quyệt đám rầy nâu chưa bị hành quyết!

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Cây bút vô cảm trước thân phận dân nghèo, im lặng trước lãnh thổ đe doạ ngoại xâm, bất lực trước cái ác trá hình nhũng nhiễu!

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Tôi đang ở đâu?
Ở đâu?
                                           (Tôi đang ở đâu?)

Chất vấn thói quen, vì vậy là một sự vượt thoát chính mình trong hành trình sáng tạo thi ca. Và đây cũng là một thành công đáng trân trọng của Phan Hoàng trong ý thức làm mới đời sống thi ca đương đại.

3. Từ tập thơ Tượng tình (1995) đến Hộp đen báo bão (2002) và Chất vấn thói quen(2012), hành trình thơ của Phan Hoàng đã trải qua hàng chục năm lao động miệt mài trên cánh đồng thơ. Để rồi sau mười năm, từ tập thơ Hộp đen báo bão Phan Hoàng xuất bản Chất vấn thói quen chỉ với 36 bài thơ, điều đó cho thấy anh là người rất cẩn trọng với thơ, rất trân trọng người đọc. Song, để chiếm lĩnh trọn vẹn tâm cảm người tiếp nhận, Phan Hoàng không dừng lại ở đây mà phải luôn đổi mới, biết từ bỏ “thói quen” lỗi thời trong lao động nghệ thuật, trong thi pháp thơ để vượt lên chính mình, hầu hoàn thiện hơn nữa hành trình sáng tạo thi ca của mình.

Đọc Chất vấn thói quen ngoài những thành công như đã khẳng định, một điều hạn chế dễ nhận thấy trong thơ Phan Hoàng ở tập thơ này đó là chất tự sự của một nhà báo làm thơ đôi chỗ đã lấn át chất trữ tình vốn là một yếu tính của thơ, khiến cho sự lan tỏa cảm xúc của thơ đến độc giả nhiều khi chưa thật hoàn hảo. Chất triết luận trong một số bài thơ nhiều chỗ chưa thể hiện hết độ chín tư duy và chiều sâu tâm hồn. Thơ là sự tan chảy của lý trí và tình cảm. Nếu hai yếu tố này không hòa quyện được trong thơ thì thơ sẽ thiếu sức lay động lòng người. Đây cũng là điều thi nhân cần nhận biết trong hành trình sáng tạo thi ca và cũng là một “thói quen” cần phải vượt qua. Khắc phục được những hạn chế này, thơ Phan Hoàng sẽ neo được trong tâm thức người đọc và sẽ có một vị trí xứng đáng trong nền thơ ca hiện đại của dân tộc. Bởi nói như Guillaume Apollinaire: “Nhà thơ là kẻ tìm ra được những hứng thú mới, dẫu hứng thú đó khó chịu đựng. Có thể thành nhà thơ ở mọi lĩnh vực: miễn là thích phiêu lưu và đi khám phá”.

Hy vọng từ Chất vấn thói quen, Phan Hoàng không ngừng khám phá vũ trụ thi ca với “hứng thú mới” để tự khai phóng những chân trời lao động, sáng tạo làm phong phú thế giới thi ca của mình.

PGS. TS TRẦN HOÀI ANH
Nguồn: Văn Nghệ



Bài đăng mới nhất

TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI CUỘC THI “MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI”

Sau 8 tháng diễn ra, cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức (với sự tài trợ giải t...

Bài đang đọc nhiều