Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Kêu gọi người tài trở về: Bắt đầu từ lòng yêu nước

Điều quan trọng nhất trước tiên chính là cần phải khơi dậy nơi các trí thức trẻ tài năng lòng yêu đất nước, không muốn Việt Nam bị thế giới xem thường.

Câu chuyện vừa qua, 100 người Việt trẻ tiêu biểu hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở nước ngoài trở về nước cùng tham dự Chương trình kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo với sự hiện diện và đối thoại của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng các lãnh đạo bộ, ngành đã cho thấy Đảng, Chính phủ đặc biệt quan tâm đến khoa học công nghệ, nguồn nhân lực thời kỳ 4.0 và thực lòng mong muốn quy tụ hiền tài về đóng góp cho đất nước.

Nhắc tới tên tuổi nhiều nhà khoa học tận hiến cả cuộc đời cho đất nước, được Tổ quốc ghi công và lịch sử ghi danh như giáo sư Trần Đại Nghĩa, nhà bác học Lương Định Của, bác sĩ Đặng Văn Ngữ…, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, lịch sử cho thấy, đất nước chỉ hưng thịnh khi khơi dậy được lòng yêu nước, quy tụ được người tài, đức dốc lòng vì nước, dám xả thân vì nghĩa lớn. Đất nước không có người hiền tài thì không thể hưng thịnh...

Trong bài viết này, tôi muốn bàn sâu đến một khía cạnh. Nước ta còn nghèo và khó khăn về nhiều mặt. Nói “trải thảm” để mời giới trí thức giỏi, tâm huyết về giúp đất nước, là điều chúng ta sẽ cố gắng làm, nhưng chắc chắn không dễ bởi cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn. Lương trả dù thế nào cũng không thể đủ cao tương xứng đóng góp của họ. Rồi thì cơ sở vật chất kèm theo, như nhà ở, phương tiện đi lại cũng như máy móc, môi trường nghiên cứu cũng có nhiều vấn đề,...

Vì thế, điều quan trọng nhất trước tiên chính là cần phải khơi dậy nơi họ lòng yêu đất nước, yêu dân tộc, không muốn Việt Nam bị thế giới xem thường và thể hiện rõ thiện ý đón các trí thức trở về cống hiến cho quê hương. Người Việt ta, dù ở phương trời nào, cũng đều canh cánh trong lòng nỗi trăn trở làm sao để đất nước phát triển, mở mày mở mặt với bên ngoài. Làm sao để có các sản phẩm, các công ty tầm cỡ thế giới “made in VietNam”, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ. Thời nào cũng vậy, cho dù là thời 4.0 đi chăng nữa. Và lịch sử có thể cho chúng ta rất nhiều bài học hữu ích về quy tụ nhân tài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc vĩ đại và vô cùng thành công trong việc “chiêu hiền đãi sĩ”. Chỉ một lời kêu gọi đúng lúc, đúng chỗ, đúng người cần vận động, Người có thể làm được những điều mà không ai có thể làm được.

Như trường hợp kỹ sư Trần Đại Nghĩa trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã trở về nước cống hiến từ năm 1946, sau lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp. Ông đã từ bỏ giàu sang phú quý bên nước người dù có rất nhiều bằng đại học, để về nước, dấn thân cùng dân tộc trong cuộc trường chinh đầy gian khổ. Con người huyền thoại ấy có thể xem như một điển hình của việc Đảng và Chính phủ ta quy tụ hiền tài.

Năm 1935, một số trí thức và nhà giáo tiến bộ đương thời ở Nam bộ đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho cậu học sinh đậu tú tài vốn thông minh hơn người Phạm Quang Lễ (tên khai sinh của Trần Đại Nghĩa) sang Pháp du học. Và suốt 11 năm ở Pháp (1935 – 1946), ông đã tốt nghiệp nhiều trường Đại học quốc gia: Cầu – Đường, Điện, Mỏ, Bách khoa, Học viện kỹ thuật Hàng không và nhiều chứng chỉ khoa học cơ bản của Đại học Tổng hợp Sorbonne. Ông cũng đã bí mật học thêm nghề chế tạo vũ khí.

Tháng 5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Paris dự Hội nghị Fontainebleau, ông đã được gặp Bác. Ít ngày sau đó, ông cùng một số trí thức yêu nước tình nguyện theo Bác về Việt Nam với hơn một tấn tài liệu quý thuộc lĩnh vực chế tạo vũ khí. Ông trở thành người khai sinh ra ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam từ hai bàn tay trắng, góp phần đánh thắng thực dân Pháp. Ông trở thành giáo sư, viện sĩ, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Anh hùng Lao động và được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu và chế tạo vũ khí.

Khi kháng chiến chống Pháp, chúng ta tiếp tục được đón các trí thức lớn khác trở về từ Pháp, như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Trần Hữu Tước, ông Nguỵ Nhu Kon Tum, như tiến sĩ Triết học lỗi lạc Trần Đức Thảo, như giảng viên Hoàng Xuân Nhị, như anh em ruột, kĩ sư Võ Đình Quỳnh và kĩ sư Võ Đình Bông..., ở Nhật về nước thì như bác sĩ Đặng Văn Ngữ...

Rồi thì một lớp trí thức khác nữa được đào tạo căn cơ ở nước ngoài rồi về nước làm việc, đời sống tuy khá giả nhưng cũng đã từ bỏ tất cả, chỉ bởi có cảm tình với cách mạng mà chấp nhận rời Thủ đô tham gia đồng hành cùng cuộc kháng chiến cứu quốc, như kỹ sư Tạ Quang Bửu, bác sĩ Đặng Vũ Hỷ...


Rất nhiều nhà khoa học trong số này đều trở thành các giáo sư, tiến sĩ khoa học đầu ngành và nhận giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước...

Suốt những chặng đường khó khăn, gian khổ của dân tộc, đã có biết bao trí thức tài ba từ bỏ cuộc sống sung túc, đủ đầy, hào quang hứa hẹn để trở về chung vai gánh vác cùng đồng bào mình. Nếu không phải là lòng yêu nước luôn da diết, nồng nàn trong thăm thẳm mỗi người Việt, thì chắc hẳn chẳng có động lực nào đủ mạnh.

Bối cảnh Việt Nam ngày nay đã khác, đã phát triển hơn trước rất nhiều. Nhưng chưa bao giờ chúng ta có thể ngủ quên trong sự thỏa mãn với những gì đạt được. Giờ đây “Cách mạng 4.0” đã trở thành khái niệm bắt gặp nơi nơi, là tương lai mà chúng ta không thể đứng ngoài. Nhưng để nó trở thành hiện thực là cả con đường đầy thách thức.

Trên con đường đó không thể thiếu sự chung tay của những trí thức trẻ tiêu biểu trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Tất nhiên, thế hệ trẻ hôm nay cũng đã khác, với những hệ giá trị, thế giới quan, những kỳ vọng cũng như những nhu cầu phong phú và khác cha ông rất nhiều. Bởi thế cách thu hút và quyết tâm tháo bỏ những rào cản để mời họ trở về cũng sẽ phải khác đi. Nhưng tất cả vẫn phải bắt đầu từ một tấm lòng khát khao dựng xây đất nước hùng cường – từ cả hai phía, người mời và người được mời.

QUỐC PHONG/ TVN



Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Lê Đình Kỵ trong lý luận - phê bình văn học

Giáo sư Lê Đình Kỵ sinh năm Nhâm Tuất 1922 ở một vùng quê làm nghề dệt vải và buôn bán tơ tằm thuộc xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trong một đoạn hồi ức đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, ông kể: "Cha tôi là nông dân, có học qua chữ Nho. Mẹ tôi tảo tần vất vả. Tuổi thơ tôi khá thiệt thòi vì trong nhà không có sách vở thi thư gì.

Có lẽ vì vậy mà khi vào đời, tính tôi rất dễ dãi, không khuôn phép như con nhà Nho" [1] . Học hết bậc tiểu học ở một ngôi trường nhỏ cách nhà hai cây số, Lê Đình Kỵ ra Huế học trung học ở Trường tư thục Việt Anh và thi đậu tú tài phần thứ nhất tại đây. Sau đó, ông chuyển vào học năm cuối bậc trung học ở trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Năm 1944, sau khi thi đậu tú tài phần thứ hai, Lê Đình Kỵ về lại Quảng Nam, khởi đầu con đường của một nhà giáo từ những lớp dạy tư ở quê nhà.

Giáo sư Lê Đình Kỵ

Học trò của giáo sư Lê Đình Kỵ có lẽ ít người biết được rằng người thầy giáo hiền lành và có phần rụt rè trước đám đông ấy đã từng là một người hoạt động xã hội tích cực. Khi Nhật đảo chính Pháp, ông hoạt động trong phong trào thanh niên Phan Anh ở Quảng Nam. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông tham gia khởi nghĩa ở Hội An, làm công tác thông tin tuyên truyền, bình dân học vụ và đã có ba năm phục vụ trong quân ngũ với nhiệm vụ của một cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn. Chính trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, vào năm 1949, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi xuất ngũ vì lý do sức khỏe, từ năm 1952 đến năm 1954, ông dạy học ở trường trung học Lê Khiết, một ngôi trường nổi tiếng cuả Liên khu 5 thời chống Pháp. Đầu năm 1955, ông tập kết ra miền Bắc, tiếp tục dạy học ở trường cấp 3 Nguyễn Trãi, Hà Nội rồi trường cấp 3 Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên. Từ năm 1958, ông được chuyển về dạy ở Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lúc này vừa mới thành lập được hai năm. Sau khi đất nước thống nhất, ông được cử vào giảng bài tại trường Đại học Văn khoa TP. Hồ Chí Minh và đến năm 1980 thì chuyển hẳn về làm việc tại trường này – nay là trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh – cho đến ngày nghỉ hưu.
Hơn nửa thế kỷ gắn bó với ngành giáo dục, giáo sư Lê Đình Kỵ đã góp phần đào tạo hàng ngàn học sinh, sinh viên. Sau khi về hưu, ông vẫn tiếp tục đến lớp giảng các chuyên đề đại học và sau đại học, đồng thời hướng dẫn thành công nhiều luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Trong 40 năm miệt mài trước tác, ông đã hoàn thành và cho công bố 19 công trình nghiên cứu với gần 5000 trang sách. Đó là chưa kể hàng trăm bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác. Những đóng góp của ông trên lĩnh vực văn hóa – giáo dục và các hoạt động xã hội đã được ghi nhận một cách xứng đáng. Năm 1984 ông được phong học hàm giáo sư mà không qua giai đoạn phó giáo sư; năm 1988 ông lại được trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân mà không qua giai đoạn Nhà giáo ưu tú. Bên cạnh những huân chương kháng chiến, tấm huân chương lao động hạng nhất (1995) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2001) là những bằng chứng cho thấy sự đánh giá cao của xã hội đối với những cống hiến của ông trên lĩnh vực sư phạm và học thuật.

Có thể nói Lê Đình Kỵ đã xuất hiện với tư cách một nhà khoa học bắt đầu từ những năm tháng giảng dạy ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Với vốn chữ Hán và tiếng Pháp được trau dồi trong những năm trước đó, ông bắt đầu học tiếng Nga để dịch thuật các sách tham khảo về lý luận văn học và văn học xô-viết. Thế hệ sinh viên đầu những năm 60 hẳn còn nhớ hai công trình mà ông và các đồng nghiệp đã dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô của V. Serbina và A. Vasenco (NXB Văn học, Hà Nội, 1961); Nguyên lý lý luận văn học của L. Timofeev (NXB Văn hóa – Viện Văn học, Hà Nội, 1962). Ông là một tấm gương tự học kiên trì và bền bỉ để tự đào tạo thành một nhà trí thức, một giáo sư đại học. Ông cũng là một trong những người đầu tiên ở nước ta tham gia xây dựng bộ giáo trình lý luận văn học được sử dụng ở nhà trường trong điều kiện mà giới nghiên cứu và giảng dạy còn thiếu thốn rất nhiều tài liệu.

Công trình đầu tiên của Lê Đình Kỵ được xuất bản thành sách là cuốn Các phương pháp nghệ thuật, tập IV, trong bộ Những nguyên lý về lý luận văn học, được nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1962. Do tính chất phức tạp của vấn đề, cuốn sách mỏng chỉ 122 trang này đã gây ra một cuộc tranh luận khá gay gắt gần suốt một năm ròng trên tạp chí Nghiên cứu văn học lúc đó. Cuộc tranh luận thu hút cả những nhà nghiên cứu lên tiếng bênh vực ông như Hoàng Xuân Nhị, Đỗ Huy một bên và những người phê phán ông như Nguyễn Xuân Nam, Nam Mộc, Duy Lập… cùng một vài người tự xưng là "công nhân" ở một bên khác.

Nhằm khắc phục bệnh công thức sơ lược và ngăn ngừa chủ nghĩa minh họa, đồng thời đề cao tính đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, Lê Đình Kỵ viết: "Xuất phát từ thế giới quan như nhau, từ cách nhìn xã hội và tự nhiên như nhau, nhà văn không phải chỉ có làm cái việc đơn giản là chuyển những nguyên tắc của thế giới quan vào sáng tác văn nghệ, mà là phải nắm vững loại biệt tính của nghệ thuật, sử dụng những phương tiện đặc biệt trong việc thể hiện bằng hình tượng và bằng điển hình hóa những hiện tượng cuộc sống. Nói đến phương pháp nghệ thuật là nói đến tính độc đáo trong sự cảm thụ và và lĩnh hội thực tại. Hình tượng văn học không phải là sự minh họa giản đơn cho một lý tưởng nhất định mà là sự khái quát hóa thực tại…" [2] .

 Quan niệm này được Đỗ Huy đồng cảm và chia sẻ: "Chúng ta không thể bác bỏ những phẩm chất thẩm mỹ của đối tượng nghệ thuật, cho nên chúng ta không thể bác bỏ tính độc đáo của phương pháp sáng tác (…) Nếu không nhấn mạnh tính độc đáo của phương pháp nghệ thuật thì sẽ xóa ranh giới giữa phương pháp nghệ thuật và các phương pháp khoa học khác, sẽ đồng nhất phương pháp nghệ thuật với thế giới quan, với lập trường tư tưởng chung của nghệ sĩ. Rõ ràng đó là công việc làm máy móc sẽ đưa đến sự tầm thường hóa nghệ thuật" [3] .

Điều này hơn hai mươi năm sau, trong một bài viết về sự nghiệp của Lê Đình Kỵ, Hà Công Tài lại càng thấy rõ hơn: "Khi nói về tính độc đáo của phương pháp, ông không nhầm lẫn giữa phương pháp và phong cách. Một bên là độc đáo của nguyên tắc phản ánh, còn một bên là độc đáo của cá tính sáng tạo (…) Ông không tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp, hay nhấn mạnh tính đặc thù một cách cô lập, dẫn tới cách hiểu phiến diện, làm cho văn học chỉ là thứ minh họa giản đơn hay chơi vơi tách rời cuộc sống" [4] .

Nhưng vào đương thời, quan niệm đó không thể được những người chủ trương "coi trọng nguyên tắc" chấp nhận: "Nhấn mạnh tính độc đáo của phương pháp nghệ thuật sẽ dẫn đến tình trạng người sáng tác không ra công chú ý học tập phương pháp – những nguyên tắc chung – mà chỉ đi sâu vào phong cách của mình"  [5] . Sở dĩ như vậy là vì văn nghệ sĩ phải phấn đấu noi theo một phương pháp sáng tác đúng nhất và tốt nhất và điều đó là ưu tiên hàng đầu so với vấn đề phong cách mà, tuy không ai phủ nhận, vẫn trở thành thứ yếu so với những nguyên tắc kia.

Tuy nhiên, đó chưa phải là điều khiến cuốn sách đầu tay của Lê Đình Kỵ bị phê phán nghiệt ngã nhất. Điều mà một số nhà nghiên cứu lúc đó không thể bỏ qua là việc tác giả Các phương pháp nghệ thuật đã trình bày chủ nghĩa hiện thực trong mối quan hệ với chủ nghĩa nhân đạo và đặt vấn đề nghiên cứu ý nghĩa toàn nhân loại của điển hình nghệ thuật. Vấn đề này ngày nay có thể xem là bình thường, nhưng cách đây 40 năm thì chưa phải đã được sự nhất trí trong học giới, nhất là khi nó vấp phải quan điểm giai cấp luận đang chi phối nặng nề đời sống nghiên cứu và phê bình văn học.

Phải đặt trong bối cảnh đó mới hiểu vì sao Nguyễn Xuân Nam viết: "Chúng tôi cho rằng chỗ yếu nhất trong tập sách, nguồn gốc chính của những thiếu sót sai lầm là chưa chú ý đúng mức đến tính giai cấp của văn học, đến tác dụng chỉ đạo của thế giới quan trong toàn bộ quá trình sáng tác" [6] . Và không phải ngẫu nhiên mà trong bài phê bình cuốn sách của Lê Đình Kỵ, Nam Mộc đã dẫn tư tưởng Mao Trạch Đông "trong xã hội có giai cấp, tính người phải có tính giai cấp, không có tính người nào đứng ngoài tính giai cấp cả" [7] , trước khi phát biểu ý kiến của mình: "Do đó khi nghiên cứu, phê bình, muốn phân tích cái hay, cái dở, cái đúng, cái sai và tác dụng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của một tác phẩm, một hình tượng, không thể không trực tiếp vận dụng phương pháp phân tích giai cấp, không thể không trực tiếp thông qua tính giai cấp" [8] . Chính vì vậy mà mặc dù thừa nhận Lê Đình Kỵ đã viết "những trang lý luận súc tích, có nhiều tìm tòi, suy nghĩ" (Nguyễn Xuân Nam), các nhà phê bình vẫn cho rằng ông "đã tỏ ra lúng túng, thiếu sót, thậm chí có lệch lạc, sai lầm ở một số trường hợp" (Nam Mộc), nhất là đã rơi vào "luận điệu siêu giai cấp" (Nguyễn Xuân Nam) và "duy tâm chủ quan" (Vũ Ý Nhi).
        
Trong một hoàn cảnh cực đoan của đời sống văn học, sự phê phán nặng nề và oan uổng nói trên không thể không làm Lê Đình Kỵ nao núng. Khi tìm cách tự bảo vệ mình, ông đã phải thừa nhận "những hạn chế" của cuốn sách "về mặt tư tưởng và nghiệp vụ"; thậm chí bảy năm sau ông còn tự kiểm điểm và rút lại một ý kiến của S. Petrov về "nội dung toàn nhân loại" của tác phẩm cổ điển mà ông từng trích dẫn làm cơ sở cho lập luận của mình vì cho rằng nó "đã coi nhẹ tính giai cấp, xem tính giai cấp chỉ là một cái gì hình thức tạm bợ, không thuộc bản chất của điển hình văn học" [9] .
         
Tất nhiên, do những quy định của lịch sử, cuốn Các phương pháp nghệ thuật không thể tránh khỏi hạn chế; nhưng giờ đây, đọc lại nó sau hơn 40 năm, chúng tôi nhìn thấy những hạn chế đó chủ yếu ở những kiến giải có phần sơ lược và khô cứng của thuyết hình tượng và lý thuyết về phương pháp nghệ thuật nói chung, chủ nghĩa hiện thực nói riêng, trong lý luận văn học xô-viết lúc đó mà ảnh hưởng của nó không chỉ chi phối riêng một mình Lê Đình Kỵ. Trong khi đó thì chính những chỗ nhạy cảm nhất của cuốn sách đã làm phật ý một số nhà nghiên cứu lại là những chỗ, dù chỉ là những nét còn mong manh, thậm chí chưa định hình rõ rệt, dự báo cho sự đổi mới trong nghiên cứu và phê bình văn học rồi sẽ phải trải qua nhiều thăng trầm nữa mới tự thể hiện được chính mình.

Cả hai phương diện đó có lẽ ít nhiều Lê Đình Kỵ đều cảm thấy, nên ông đã tìm câu trả lời hợp lý nhất đối với học giới là âm thầm và kiên trì theo đuổi, đào sâu hướng nghiên cứu mà mình đã chọn. Sau này, ông tiếp tục viết lại, bổ sung, sửa chữa những luận điểm về các phương pháp sáng tác và trào lưu nghệ thuật, để cho nó vừa có tính chất cập nhật và thỏa đáng hơn, vừa tránh được những điều tiếng gây bất lợi cho một công trình được sử dụng trong nhà trường. Mặc dù có những chỗ còn có thể tiếp tục thảo luận như có nên phân biệt chủ nghĩa lãng mạn tích cực và chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực hay không và phân biệt như thế nào, mở rộng biên độ của chủ nghĩa hiện thực đến đâu, những chương sách này của Lê Đình Kỵ chứng tỏ sự lao động công phu và những suy nghĩ nghiêm túc của một người làm khoa học.
        
Hẳn nhiên vấn đề chủ nghĩa hiện thực đã có sức cuốn hút mạnh mẽ giới nghiên cứu một thời. Lê Đình Kỵ đã trình làng không dưới ba lần những văn bản lý luận về chủ nghĩa hiện thực. Nhưng ông không dừng lại ở đó. Ông muốn vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực để khảo sát một hiện tượng văn học tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Theo lời kể của ông, cái nhan đề Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du đã do nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau. Nhưng dù không có ba chữ "của Nguyễn Du", thì vấn đề nhấn mạnh mối quan hệ của kiệt tác này với những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực vẫn còn nguyên đó. Quả là một nghịch lý, hướng nghiên cứu mà về sau này có người xem là hiện đại hóa Truyện Kiều đã giúp Lê Đình Kỵ đạt được những kết quả hết sức thuyết phục trong một công trình được xem như đỉnh cao trong sự nghiệp trước tác của ông. Công trình này được khởi thảo từ năm 1965, trong dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, được xuất bản lần đầu năm 1970 và cho đến nay đã in đến lần thứ tư. Trong lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học ở ta, số công trình có may mắn và vinh dự được bạn đọc đón nhận như vậy không phải nhiều lắm. Nhiều thế hệ sinh viên đã biết đến Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực như một giảng khóa đặc sắc ở đại học. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã tìm thấy ở đây không chỉ tư duy khái quát và khả năng kiến giải của một nhà lý luận mà còn cả sự cảm thụ tinh tế, năng lực phân tích sắc sảo của một ngòi bút phê bình. Đúng như Nguyễn Lộc, một chuyên gia hàng đầu về Truyện Kiều, đã nhận định: "Giáo sư Lê Đình Kỵ chuyên giảng dạy lý luận văn học, đồng thời là một nhà phê bình thơ quen biết. Chính lý luận văn học đã giúp anh tìm được một hướng tiếp cận Truyện Kiều mới mẻ và khả năng thẩm thơ, bình thơ giúp anh truyền đạt được cái hay, cái đẹp trong nhiều câu thơ mà người ta có thể thuộc nhưng không phải ai cũng cảm nhận, thấm thía hết được" [10] .

Nhìn Truyện Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định, Lê Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư tưởng - thẩm mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà thơ. Tác giả cuốn sách đã chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất trong triết lý về Tài, Mệnh, Tâm của Truyện Kiều. Những trang hay nhất của cuốn sách được dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn Du, từ Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh… Với giọng văn uyển chuyển và nhuần nhị, những trang sách này có thể xem là một dẫn chứng điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện đại có tầm văn hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế giới và con người. Ông viết: "Sức mạnh của câu thơ Kiều không hẳn là ở chỗ khám phá ra những hình tượng chưa ai hình dung được, những ý nghĩ chưa ai ngờ tới, mà là ở cái tình người, tình đời thăm thẳm mà Nguyễn Du đưa vào cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ của mình, vào một vầng trăng, một dòng suối, một ngàn dâu, một tiếng chim, một ngọn lá. Đến đá dưới ngòi bút Nguyễn Du cũng mềm đi trước những đau khổ của con người" [11] . Đằng sau đoạn văn này có cả bề dày của một quá trình suy ngẫm về văn học. Ai bảo là những gì tác giả viết ra cách nay gần bốn thập kỷ lại không góp phần soi sáng những vấn đề thời sự của lý luận và thực tiễn văn học, như vấn đề văn học phản ánh hiện thực, vấn đề đặc trưng của sáng tạo nghệ thuật?

Mặc dù có "sự dè dặt của tác giả trên những vấn đề vốn hóc búa" như Nguyễn Lộc đã nhận xét, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực vẫn là một công trình thể hiện đầy đủ bút lực của một nhà nghiên cứu có uy tín. Cuốn sách gợi cho ta ý nghĩ rằng có lẽ trong đời mình mỗi nhà nghiên cứu chỉ cần viết nên một cuốn sách thật đích đáng. Hẳn tác giả cũng nhận ra rằng các công trình khác của ông, dù có những đóng góp nhất định, vẫn khó lòng vượt qua cuốn sách này. Và khi mà khoa nghiên cứu văn học ngày càng có thêm nhiều công cụ mới do phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học… cung cấp, thì công trình này vẫn vừa là một thách đố để các nhà nghiên cứu hôm nay và ngày mai vượt qua, vừa để lại những khoảng trống cho các thế hệ sau tiếp tục tìm tòi, suy nghĩ trên những vấn đề không dễ gì có tiếng nói khoa học sau cùng.
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực phương Đông nói chung, chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ điển Việt Nam nói riêng, cho đến nay, chưa phải đã được bàn luận thấu đáo. Thời Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở nước ta không phải không có xu hướng vận dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương Tây vào việc nghiên cứu những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không tránh khỏi ít nhiều khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa hiện thực là cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều: trong một bản in ở Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988, ông đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách này là Truyện Kiều, đỉnh cao văn học.

 Thành ra, không thể phủ nhận là có một độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực và thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du. Âu đó cũng là nỗi ám ảnh của một thời. Nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét một cách thỏa đáng, Lê Đình Kỵ đã "vượt lên cái khung ông tự đặt cho mình"  [12]. Và nói một cách công bằng, lý thuyết chủ nghĩa hiện thực, dù còn có phần đơn giản, không phải không cung cấp những gợi ý quan trọng cho nhà nghiên cứu khám phá chiều sâu của nội dung và nghệ thuật Truyện Kiều: "Thành công đáng kể của Lê Đình Kỵ là ông đã vận dụng nhuần nhuyễn các khái niệm tính cách, cá tính, hoàn cảnh, chi tiết để phân tích tính thống nhất toàn vẹn, sinh động của các nhân vật Truyện Kiều. Có thể nói đó là sự nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều theo thi pháp của chủ nghĩa hiện thực. Đồng thời đối chiếu với thi pháp của chủ nghĩa hiện thực cũng làm cho nhà nghiên cứu thấy rõ nhiều đặc trưng nghệ thuật riêng của Truyện Kiều mà ông gọi là “những ràng buộc của mỹ học đương thời…" [13] . Về sau này Lê Đình Kỵ nói rõ hơn ý mình: "Tôi cố gắng tìm hiểu những tư liệu lịch sử về thời đại và cuộc đời Nguyễn Du; căn cứ vào chính văn bản và các hình tượng trong Truyện Kiều để thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại không chỉ vì phương pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bởi vì thực ra những gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng ta chỉ có thể hình dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn sơ kỳ của nó mà thôi" [14] .

Với tư cách là một nhà phê bình văn học, ngay từ bài phê bình đầu tay in trên báo Văn nghệ năm 1959, Lê Đình Kỵ đã chứng tỏ sự quan tâm sâu sắc đối với công việc của các nhà văn Việt Nam hiện đại. Ông đã có nhiều bài viết kịp thời về các sáng tác của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật… Ông cũng suy nghĩ về sứ mệnh của nhà phê bình qua các bài viết về Đặng Thai Mai, Hải Triều, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Mặc dù không khỏi bị giới hạn bởi tính thời sự của thể loại phê bình, các trang viết của Lê Đình Kỵ vẫn lấp lánh những phát hiện sắc sảo của một tâm hồn mẫn cảm và tinh tế. Những bài phê bình của ông đã lần lượt được tập hợp trong các cuốn sách Đường vào thơ  (NXB Văn học, 1969), Trên đường văn học (2 tập, NXB Văn học, 1995) và Phê bình - nghiên cứu văn học (NXB Giáo dục, 1998). Chuyên phê bình thơ, một số bài viết của ông đã trở thành những bài phê bình tiêu biểu được in lại nhiều lần để làm tài liệu tham khảo trong nhà trường trung học và đại học như các bài về thơ Hồ Chí Minh, thơ Chế Lan Viên, thơ Xuân Diệu…

Cùng với mối quan tâm dành cho văn học hiện đại, càng về sau, Lê Đình Kỵ càng mở rộng tầm khảo sát của mình đến văn học quá khứ của dân tộc. Có thể nói ông là một trong những nhà nghiên cứu đã có công vận dụng lý luận văn học để soi sáng vào những tác gia và tác phẩm cổ điển mà giá trị tưởng chừng đã ổn định, không cần gì phải bàn luận thêm. Hay cũng có thể nói ngược lại, từ việc khảo sát văn học truyền thống, Lê Đình Kỵ đã góp phần làm sáng tỏ quy luật phát triển của văn học nước nhà. Ngoài Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ông còn có những trang viết công phu về di sản lý luận của cha ông ta, về Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương và Tú Xương, Chiêu Anh Các và Đông Kinh Nghĩa Thục, cả về những tác phẩm văn học dân gian như Mỵ Châu Trọng Thủy, Chử Đồng Tử, Trương Chi…

Thật ra cũng khó mà phân biệt rạch ròi đâu là tính chất nghiên cứu và đâu là tính chất phê bình trong sự nghiệp trước tác của Lê Đình Kỵ. Từ những bài phê bình riêng lẻ về Tố Hữu, ông đã tổng hợp và nâng cao thành một chuyên luận dày dặn với hơn 500 trang do nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1979, trong đó giới thiệu các chặng đường sáng tác, những chủ đề chính và phong cách tư tưởng - nghệ thuật của nhà thơ. Từ những ý kiến về thơ lãng mạn thời kỳ 1932-1945 được trình bày ở nhiều nơi, Lê Đình Kỵ đã phát triển thành một khảo luận dày 350 trang có nhan đề Thơ Mới – những bước thăng trầm do Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh in năm 1988, tái bản năm 1993. Có thể nói đây là một thành quả mang dấu ấn rõ rệt của thời kỳ đổi mới trong nghiên cứu và phê bình văn học. Trước vị trí không thể thay thế được của Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, cuốn Thơ Mới – những bước thăng trầm đã tiếp cận thơ lãng mạn 1932-1945 từ chỗ đứng của ngày hôm nay, nhìn lại lịch sử vấn đề rất phức tạp của hiện tượng văn học này mà tìm cách "chiêu tuyết" cho nó.

Là một nhà nghiên cứu theo quan điểm mác-xít, Lê Đình Kỵ luôn khẳng định bản chất xã hội của văn học, đồng thời rất coi trọng những đặc trưng của văn học, đề cao sự độc đáo của phong cách và cá tính sáng tạo nơi những bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ trong việc tái hiện đời sống và biểu hiện tâm hồn con người. Những bài viết của ông về Phong cách trong văn học, Tư duy hình tượng và ngôn ngữ văn học, Chân lý nghệ thuật, Nghề văn… chứng minh điều đó. Đó cũng là hướng đi mà ông trung thành trong thực tiễn phê bình.

Nguyễn Văn Hạnh, người từng cộng tác với Lê Đình Kỵ trong việc biên soạn giáo trình lý luận văn học, có lẽ đã hiểu được thế mạnh ngòi bút của ông: "Quan tâm đến cả nội dung và hình thức, cả phương diện tư tưởng, nghệ thuật và ngôn ngữ, cả giá trị nhân văn và thẩm mỹ của văn học, nhưng cũng giống như nhiều nhà nghiên cứu cùng thế hệ, Lê Đình Kỵ có thiên hướng và cũng có sở trường hơn về phân tích nội dung ý thức xã hội của văn học. Nhưng đây là nội dung gắn liền với hình thức, được biểu hiện qua ngôn từ, vần nhịp, giọng điệu, kết cấu, nội dung mang chất nhân bản, nhân văn, thể hiện một cách sinh động, đặc sắc cuộc sống và tâm hồn của người nghệ sĩ"  [15] . Và trong đời một người viết văn – sáng tác cũng như nghiên cứu, phê bình – hạnh phúc nhất là tạo được cho mình một phong cách riêng và phong cách đó lại được đồng nghiệp và bạn đọc thừa nhận: "Lê Đình Kỵ hầu như chỉ viết về những gì mình thích, chỉ nói về cái hay, cái đẹp của thơ, của văn chương. Văn phong của anh biểu đạt cách cảm nghĩ của anh, tâm hồn của anh, sáng sủa, khúc chiết, đồng thời cũng rất uyển chuyển, biến hóa, có duyên. Đọc Lê Đình Kỵ, lắm khi người ta bị lôi cuốn không chỉ bởi nội dung mà còn bởi cách trình bày, bởi những ý, những chi tiết thú vị, bởi văn của người viết. Với sự nhạy cảm và tinh tường quý hiếm ở một nhà nghiên cứu, anh Lê Đình Kỵ thực sự là một người đồng sáng tạo trong tìm hiểu các giá trị thi ca, các giá trị văn chương mà anh đã dành nhiều thời gian để suy ngẫm, chiêm nghiệm, phát hiện ra những vẻ đẹp mới và giới thiệu với mọi người một cách hứng thú và xúc động" [16] .

Nhận xét này cũng gặp gỡ với ý kiến của Nguyễn Lộc, người đã nhiều năm cùng làm việc với Lê Đình Kỵ ở trường đại học: "Có công trình nghiên cứu lúc nào cũng cố tỏ ra đạo mạo, tỉnh táo, tự tách mình ra khỏi tác phẩm, tưởng như thế mới giữ được khách quan "khoa học". Ở Lê Đình Kỵ, trước hết là phải sống hết mình với tác phẩm, phải cảm nhận cho được cái hay cái đẹp của nó, rồi từ đó mới đi vào phân tích, khái quát, diễn giải. Cách làm này quả đã giúp anh có nhiều phát hiện tinh tế gây ấn tượng mạnh và viết được nhiều trang lôi cuốn, hấp dẫn. Đọc văn nghiên cứu của Lê Đình Kỵ, nhiều lúc có cảm giác như đọc văn nghệ thuật được viết ra một cách hứng thú, có cá tính"  [17].

Gần 35 năm trước, Vương Trí  Nhàn, một trong những cây bút góp phần tạo nên diện mạo của phê bình Việt Nam đương đại, từng viết về phong cách phê bình của Lê Đình Kỵ qua tập Đường vào thơ: "Anh nhập được vào tác giả như một người trong cuộc, để thấy chỗ dễ, chỗ khó. Càng những chỗ mịt mờ sương khói, thơ lung linh ẩn hiện, như ở giữa cái dễ dàng và dễ dãi, cái say và cái tỉnh, cái khái niệm và tư tưởng thơ ca…, Lê Đình Kỵ lại càng tỏ ra có sự tinh tế của một nhà phê bình. Anh vừa theo sát các tác giả trong từng bài thơ, từng câu thơ, lại vừa chú ý để từ đó mở rộng ra, nâng cao, khái quát. Hơn một sự phẩm bình cụ thể, người viết muốn truyền đến ta một tình cảm, một cách nhìn, một lý tưởng thẩm mỹ như anh vẫn nói…"  [18]. Mới đây, Vương Trí Nhàn còn nhắc đến Lê Đình Kỵ khi nhớ lại thuở mới vào nghề: "Khoảng đầu những năm 60 trên báo chí văn nghệ ở Hà Nội thấy nổi lên một lối viết phê bình mà trong tầm mắt của một cậu học trò cấp 3 Chu Văn An như tôi, nghe có vẻ rất mới, khiến tôi mải miết học theo, tất nhiên theo lối học lỏm. Người tôi mê nhất lúc ấy là Lê Đình Kỵ" [19] .

Kể lại những kỷ niệm về người thầy mà mình chịu ơn, Phạm Quang Long viết rằng ông đã chọn học ngành Văn một phần vì yêu thích văn phê bình của Lê Đình Kỵ từ khi còn ở trung học: "Bài viết của thầy Kỵ về thơ Chế Lan Viên theo trí nhớ của tôi là Những biển cồn hãy đem đến trong thơ thu hút tôi một cách kỳ lạ. Sự tinh tế trong cảm thụ, những kiến giải sâu sắc của một tư duy mãnh liệt như thế lần đầu tiên tôi bắt gặp trong sách vở đã gợi bao xúc động trong tôi" [20] .

Nói về phê bình văn học, Lê Đình Kỵ quan niệm: "Chọn phê bình văn học là phải am hiểu lý luận văn học, phải biết chấp nhận những ý kiến trái ngược nhau; nhưng trước hết thái độ của người phê bình là vì học thuật và thực sự cầu thị, hướng tác giả - tác phẩm - công chúng đến Chân Thiện Mỹ và hoàn toàn vì nghệ thuật. Một tác phẩm (sáng tác, phê bình) ra đời mà không ai đọc thì có cũng như không. Có người đọc, nhưng mơ hồ không thấy hay dở ở chỗ nào và vì sao thì cũng thật đáng tiếc cho tác giả cũng như cho bản thân người đọc. Phê bình có tác dụng bổ khuyết cho khoảng trống này, cố gắng là nhịp cầu nối liền tác giả, tác phẩm với công chúng, làm cho tác phẩm có giá trị trở lại sống nơi người đọc, trong chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật của nó" [21] .

Khẳng định vai trò của trực giác, trực cảm trong phê bình, đề cao đóng góp của Hoài Thanh, nhưng Lê Đình Kỵ không muốn lấy một lối phê bình nào làm khuôn mẫu. Ông nói: "… đi vào phê bình, thẩm định văn học, đòi hỏi đầu tiên là hiểu văn học đúng với văn học, nhìn nhận mỗi tác phẩm đúng với cái hay cái dở của nó, mà cái hay cái dở ở đây có muôn vàn sắc độ, thường chỉ có thể phát hiện, cảm thụ bằng trực giác trực cảm. Khả năng này có được một phần nhờ bẩm sinh, một phần nhờ trải qua quá trình tiếp xúc với những giá trị văn học chân chính do hàng trăm ngàn tài năng, thiên tài văn học trong nước và trên thế giới tạo ra (…) Không có Thi nhân Việt Nam thì Thơ Mới cũng vơi đi một phần giá trị. Bây giờ không thể dừng lại, dẫm chân tại chỗ với lối phê bình kiểu Hoài Thanh. Ai đó muốn đem cái hào quang của sáng tác để phủ lấp ý nghĩa của phê bình, nghiên cứu. Đặt vấn đề hơn thua giữa sáng tác và phê bình để làm gì chứ? Vấn đề là chất lượng, còn dở thì dù sáng tác hay phê bình cũng đều vô ích như nhau"  [22].

Từ những trang viết của Lê Đình Kỵ toát lên một ý tưởng chủ đạo này: Để cho phê bình có thể có tác động đến tiến trình văn học và tồn tại được với thời gian, thì nhà phê bình phải là người đồng hành với người sáng tác và người đọc trong sự nghiệp xây dựng một nền văn học giàu tính nhân văn và đậm đà tinh thần dân tộc. Viết phê bình trước hết là để góp phần làm cho văn học đơm hoa, kết trái và phát triển sinh sắc trong niềm hy vọng chứ không phải truy bức cho nó lụi tàn đi trong nỗi hoang mang và niềm sợ hãi.

 Trong nghiên cứu, phê bình, Lê Đình Kỵ vốn là người thận trọng khi đánh giá những hiện tượng mới. Ông không bao giờ tán thành những biểu hiện thái quá và cực đoan trong sáng tác và phê bình. Nhưng mặt khác, ông cũng chưa lần nào tỏ ra nặng lời dè bỉu làm nản chí những nỗ lực tìm tòi của các thế hệ đến sau. Có thể tìm thấy ở ông tấm gương của một nhà giáo, một nhà khoa học luôn thể hiện tính đòi hỏi cao trong công việc, đồng thời một tấm lòng nhân ái, bao dung đối với lớp trẻ. Những ai từng có dịp làm việc với ông hẳn đều chia sẻ nhận xét của Nguyễn Văn Hạnh: "Trong giảng dạy cũng như trong nghiên cứu văn học, anh Lê Đình Kỵ là người có trách nhiệm cao và có chủ kiến rõ ràng. Nhưng vốn là người hiền lành, độ lượng, anh thích nói về những biểu hiện tích cực của cuộc sống, biết lắng nghe và chờ đợi, khơi dậy tính chủ động và sáng kiến của học trò, động viên những thành công bước đầu của những cây bút trẻ. Đương nhiên, có thể có một thái độ khác, một cách ứng xử khác trong cuộc sống, trong quan hệ với người đời, mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn, thậm chí quyết liệt hơn. Nhưng kinh nghiệm cho thấy là trong những lĩnh vực phức tạp và tế nhị như công tác đào tạo, như hoạt động văn học thì cách tiếp cận của anh Lê Đình Kỵ, cách nghĩ và cách viết của anh thường tỏ ra hợp tình hợp lý hơn, có hiệu quả hơn" [23] .

Chứng kiến và tham gia trực tiếp vào những biến động của đời sống văn học gần nửa thế kỷ qua, Lê Đình Kỵ hẳn cảm nhận sâu sắc những vui buồn nghề nghiệp cũng như ý thức rõ về những thử thách mà người làm lý luận, phê bình phải đối diện. Những trang viết, dù là sáng tác hay nghiên cứu, phê bình, chấp nhận làm chức năng minh họa cho những giá trị nhất thời, thì khó mà tránh khỏi một số phận ngắn ngủi, hẩm hiu. Nhà khoa học không thể không bị quy định bởi một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng đồng thời cũng biết vượt thoát khỏi hoàn cảnh và tác động trở lại hoàn cảnh. Những gì họ viết ra không chỉ là bằng chứng ghi dấu cái thời đại họ sống, mà còn là tấm gương phản ánh bộ mặt tinh thần của người trí thức luôn coi trọng lương tri và lẽ phải, luôn kiên trì với những xác tín khoa học của mình ngay trong điều kiện bất lợi nhất. Vì vậy, giá trị và ý nghĩa của những tài sản tinh thần họ để lại nhiều khi không phải là chân lý vĩnh cửu cho mọi nơi, mọi thời; mà chính là bài học về lương tri và khát vọng tìm chân lý cho những ai tin tưởng vào sự tiến bộ và nỗ lực phấn đấu cho sự tiến bộ trên con đường nghiên cứu khoa học.

GS.TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Lời giới thiệu Tuyển tập Lê Đình Kỵ, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2006.

_____________________

[1] Giáo sư, nhà giáo nhân dân Lê Đình Kỵ (Cát Uyên – Phan Hoàng thực hiện), Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 211, ngày 01-6-1996, tr. 6.
[2]  Lê Đình Kỵ: Các phương pháp nghệ thuật, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1962, tr. 3.
[3] Đỗ Huy: Vấn đề phương pháp nghệ thuật, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 - 1963, tr. 76.
[4] Hà Công Tài: Lê Đình Kỵ, in trong sách Tác gia lý luận phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam 1945 – 1975, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986, tr. 219 - 220.
[5] Nguyễn Xuân Nam: Mấy ý kiến về cuốn “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11 – 1962, tr. 12.
[6] Nguyễn Xuân Nam: Mấy ý kiến về cuốn “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11 – 1962, tr. 12.
[7] Nam Mộc: Nhìn lại cuộc trao đổi ý kiến về cuốn “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Văn học, số 5 -1963, tr. 12.
[8] Nam Mộc: Bđd, tr. 13.
[9] Xem Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 469.
[10] Nguyễn Lộc: Đọc lại “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực”, in trong sách Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 351.
[11] Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 170.
[12] Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 344.
[13] Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 18.
[14] Lê Đình Kỵ: Cái duyên và cái nghiệp (Nguyễn Hà thực hiện), Tạp chí Văn học, số 3 - 2000, tr. 11.
[15] Nguyễn Văn Hạnh, Một đời lao động tận tụy và sáng tạo, in trong sách Lê Đình Kỵ: Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 4.
[16] Nguyễn Văn Hạnh, Sđd, tr. 5.
[17] Nguyễn Lộc, Sđd, tr. 352.
[18] Vương Trí Nhàn, Bước đầu đến với văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986, tr.  128.
[19] Vương Trí Nhàn: Tỉnh táo nhìn lại mình để tìm cách đổi khác…, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7 - 2004, tr. 73.
[20] Phạm Quang Long: Thầy Kỵ, in trong sách Để nhớ một thời: 40 năm khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1996), Hà Nội, 1996, tr. 60.
[21] Lê Đình Kỵ: Tự học là chính (Nguyễn Tý thực hiện), Tuần báo Văn Nghệ, số 24, ngày 16-6-2001, tr. 19.
[22] Lê Đình Kỵ: Tự học là chính, Bđd, tr. 19.
[23] Nguyễn Văn Hạnh, Sđd, tr. 5.


Cơn mưa xanh của Phạm Quang Tiễn

Các cụ ngày xưa dạy rằng: Trên đời này không có gì là tình cờ cả. Mọi thứ đều đều được sắp đặt và đều từ nhân duyên mà ra. Không có duyên thì không gặp được. Tôi biết Phạm Quang Tiễn từ cái duyên ấy, nếu có thể ví được như thế. Số là cách đây hơn một năm, Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn TP.HCM có chuyển cho tôi hơn 30 tập thơ của các tác giả trẻ nhờ đọc. Phạm Quang Tiễn là một trong các tác giả đó. Tôi biết Phạm Quang Tiễn từ cơ duyên như vậy.
Nhà thơ Phạm Quang Tiễn
             
Gần một năm sau tôi mới được gặp Phạm Quang Tiễn tại “Sân thơ trẻ” trong Ngày Thơ Việt Nam Xuân Tân Mão tổ chức ở Bến Nhà Rồng. Qua chuyện trò tôi mới biết Phạm Quang Tiễn là người làm xây dựng nhưng tính ông lại nhẹ nhàng, nhỏ nhẹ, chỉn chu như một nhà giáo. Ông đến với thơ đơn giản chỉ là yêu nó. Âu cũng là duyên trời vậy.

Phạm Quang Tiễn trao cho tôi tập thơ “Cơn mưa xanh” và nhờ tôi đọc “Xem có in được không?”- ông nói. Phạm Quang Tiễn là vậy. Sẽ sàng, khiêm nhường hơn cả mức cần thiết. Là người đã từng cho ra đời hai tập thơ: “Trở lại dòng xưa” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2006 và “Tơ xanh Tơ vàng” in năm 2010 nên tập thơ thứ ba này hẳn phải rất thú vị. Và tôi đã không lầm:

                                   Ngày tôi trở lại dòng xưa
                                   Ngày em lỡ chuyến đò trưa một mình
                                   Sông quê mải miết vô tình
                                   Phù sa lắng đọng dần thành nỗi đau
                                   Nửa đời trôi chảy với nhau
                                   Mượn câu thơ chở bể dâu kiếp người…

                                                          (Trở lại dòng xưa 2)

Thơ của Phạm Quang Tiễn hồn hậu, chân thành như chính con người ông. Điểm nhấn trong thơ ông cũng giống như điểm nhấn trong công trình xây dựng, tạo ra ấn tượng làm cho người ta phải nhớ:

                                    Nhưng em vẫn trong anh
                                    Hệt như ngày xưa ấy
                                    Cái đuôi tóc vùng vẫy
                                    Bơi trên vai ngày nào
                                    Cái dáng đi thanh mảnh
                                   Làm bao người nôn nao.

                                           (Gửi bạn Hà Nội)

Tập thơ Cơn mưa xanh của Phạm Quang Tiễn

Sinh ra và lớn lớn ở vùng Duyên Hải Bắc Bộ nên chính dòng sông quê tươi mát đã tưới xanh tâm hồn Phạm Quang Tiễn. Thơ ông không ào ạt, mạnh mẽ như những lớp sóng mà sẽ sàng, rỉ rả giống như mưa xuân. Nó thấm vào lòng người một cách tự nhiên bởi sự sâu lắng đến giản dị:

                                   Trời xanh không có thực
                                   Biển cũng có xanh đâu
                                  Tạo hóa làm phông ảo
                                  Cho người diễn với nhau!

                                                    (Dự cảm)

Tác giả “Cơn mưa xanh” đã phản ảnh một cách chân thực sự xúc cảm đa chiều trong tâm hồn mình. Đọc thơ ông, người ta dễ dàng nhận ra trong cái đẹp có cái đau và trong cái đau có cái đẹp. Chính sự tương phản này làm cho thơ ông rất “riêng” khó có thể bị quên lãng:

                                   Mỗi tháng đủ ba mươi ngày
                                   Vẫn viết nhật ký vẫn bày trò vui
                                   Thơ tình vẫn cứ “Em ơi !”
                                   Viết xong lòng mới bồi hồi: Gửi ai ?

                                                  (Trường Sa một thoáng)

Hoặc:

                                Tan ca em ghé chợ
                                Tất tưởi mua mớ rau
                                Con cá chiều mắt đục
                                Con tôm chiều long đầu
                                Cuối tháng ví xẹp lép
                                Toàn những đồng tiền nhàu
                                Lượn qua rồi vòng lại
                                Trăng cài xanh mái đầu!

                                              (Chợ chiều)

Nghề xây dựng đã đưa ông đến nhiều vùng đất. Những xúc cảm cũng trải dài trên con đường của ông. Người đọc có thể chia sẻ với ông những xúc cảm đó - Những xúc cảm tưởng là rời rạc nhưng lại phản ánh một cách thống nhất cái nhìn thời cuộc và không mất đi chất thơ trong tâm hồn ông:

                                Đêm nghe tiếng máy ủi
                                Gạt trăng vàng xuống thung
                                Có một người không ngủ
                                Nhìn lên trời…rưng rưng.

                                                  (Xưa rồi)

Đọc thơ Phạm Quang Tiễn người ta có thể nhận thấy tình yêu chân thành nhất quán mà ông dành cho người ông yêu. “Em” là một người cụ thể nào đó mà ông yêu thương, gửi gắm. Nhưng “Em” cũng có thể chỉ là một ước vọng, một khát khao, một vẻ đẹp thuần khiết mang tính biểu tượng mà ông suốt đời ngưỡng vọng, tìm kiếm:

                                Em mãi là tứ thơ thứ nhất
                                Bài thơ tôi chưa viết bao giờ
                                Em mãi là bông hoa thứ nhất
                                Mà tôi chưa hái được trong mơ

                                Tôi sinh ra đã là người hành khất
                                Suốt đời gõ cửa trái tim em
                                Cả khi ngủ lòng còn thổn thức
                                Trong giấc mơ vẫn rạo rực đi tìm.

                                                       (Em và tôi)

Tôi không muốn huyên thuyên, dài dòng về thơ Phạm Quang Tiễn bởi không thể nói hết được những điều mà ông muốn gửi gắm, muốn chia sẻ với người đọc. Người xưa từng nói: “Ý hết, lời dứt đã là hay. Nhưng lời dứt mà ý chưa hết mới hay hơn.” Xin nhường lại cho bạn đọc thẩm định lời dạy ấy trong thơ của Phạm Quang Tiễn.

VĂN LÊ
(Lời tựa tập thơ Cơn mưa xanh)

_____________________

Nhà thơ Phạm Quang Tiễn sinh năm 1958 ở xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Hiện đang công tác tại Công ty TNHH Xây dựng Phạm Quang ở 89 - 91 Nguyễn Du, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm đã xuất bản:

Trở lại dòng xưa - thơ, NXB Hội Nhà văn 2006
Tơ xanh tơ vàng - thơ, NXB Thanh Niên 2010
Cơn mưa xanh - thơ, NXB Hội Nhà văn 2011
Đất Tổ - thơ, NXB Hội Nhà văn 2016

Quan niệm văn học:

“Sinh ra và lớn lên trong cái nôi đồng bằng Bắc Bộ. Thơ Phạm Quang Tiễn không ào ạt, mạnh mẽ như những lớp sóng mà sẽ sàng, rỉ rả giống như mưa xuân. Nó thấm vào lòng người một cách tự nhiên bởi sự sâu lắng đến giản dị…”


Thứ Ba, 28 tháng 8, 2018

Ngôn ngữ độc thoại trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

Ngôn ngữ độc thoại là một phần quan trọng của tác phẩm văn chương. Cùng với ngôn ngữ đối thoại nó hoàn chỉnh tác phẩm ở góc độ ngôn ngữ. Qua việc khảo sát ngôn ngữ độc thoại trong tập “37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”, tôi nhận thấy một lối tư duy mới, cách cảm, cách nghĩ mới mang đậm màu sắc nữ giới…
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng ngôn ngữ độc thoại đời thường một cách phổ biến. Việc lựa chọn ngôn ngữ này xuất phát từ tư duy hướng vào đời tư, bám sát hiện thực đời sống. Nguyễn Thị Thu Huệ đã đưa vào tác phẩm của mình tiếng nói của đời sống thường nhật, dung nạp nhiều khẩu ngữ tự nhiên, làm độc giả không mấy khó khăn khi tiếp cận tác phẩm. Ngôn ngữ này dường như thô nhám, đôi khi suồng sã, bỗ bã, như: “Mặt mũi những thằng đàn ông suốt đời bị mất trộm” (Tình yêu ơi ở đâu); hoặc những câu nói từ thành ngữ: “nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện ấy thường lắm” (Nước mắt đàn ông). Cũng có khi thứ ngôn ngữ này được diễn tả theo một chiều hướng khác bằng lối nói dân gian “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời gian của mỗi người). Lối nói suồng sã trong truyện ngắn của chị thể hiện rõ trong những dòng độc thoại nội tâm suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và con người, thể hiện cách nghĩ của nhân vật về thời cuộc, về chính mình. Những dòng độc thoại nội tâm bằng lối nói dân gian khi suồng sã, có lúc bỗ bã đến không ngờ làm cho các nhân vật của chị như gai góc hơn, thực tế hơn, đôi khi là thực dụng về  đời với một tâm trạng buồn xa xôi và chua xót.

Dòng nội tâm của các nhân vật còn được thể hiện bằng những ngôn từ hiện đại, phóng túng, giàu hình tượng của đời sống kinh tế thị trường. Điều này làm cho ngôn ngữ của họ cập nhật hơn, mới mẻ hơn với cuộc sống hiện đại. “Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày” (Nước mắt đàn ông). Đồng thời Nguyễn Thị Thu Huệ  còn có những dòng độc thoại nội tâm diễn đạt bằng phương ngữ rất đỗi nhẹ nhàng và duyên dáng. Lối diễn đạt này làm cho dòng nội tâm của nhân vật diễn ra tự nhiên hơn, không câu nệ vào ngôn từ hay cách diễn đạt của tác giả.

Đưa vào tác phẩm lối nói dung dị, sử dụng ngôn ngữ đời thường, cây bút nữ trẻ đã cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm và độc giả. Tiếp xúc tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ tôi nhận thấy rõ ràng  tác giả này đã có những sự rút gần khoảng cách người kể chuyện và nhân vật, tác giả và bạn đọc. Với lối nói kiểu đời thường này, chị đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống với một gam màu lạ, thể hiện được sự đa dạng và sống động của cuộc sống.

Những tác giả nữ thường có lợi thế trong việc diễn đạt sâu sắc nội tâm nhân vật nữ, trong việc bộc lộ đến tận cùng thái độ, cách cảm, cách nghĩ của giới mình. Sự khám phá thế giới tâm hồn người phụ nữ được Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện ở mọi phương diện, từ trạng thái đến tình cảm, những cung bậc của cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê và cả những “gót chân Asin” của họ.

Công việc nội trợ hằng ngày gắn liền với người phụ nữ, cho nên trong những dòng suy nghĩ, dòng tâm tưởng của họ cũng có ít nhiều dấu vết. Nguyễn Thị Thu Hụê đã nhìn màn “đêm đen thẫm như một miếng thạch” (Cát đợi); ví liên khúc các bài hát như: “một xâu cá rô quẫy đạp liên hồi” (Cát đợi) và “những người đàn bà khác chạy qua đời tôi nhạt nhẽo như bí luộc” (Người đàn bà ám khói); hay những cảm nhận thú vị: “nhiều khi nó thấy ở mồm mẹ nó nói ra những câu đối thoại giống như một cái chợ bán cá thu nhỏ” (Phù thuỷ), “khuôn mặt méo xệch, vẹo vọ méo mó như cái oản bẹp” (Phù thuỷ).

Bằng trực giác và cảm nhận sâu sắc, chị viết nên những tâm sự của giới đàn bà, với những điều giản dị và không xa lạ với hầu hết phụ nữ. Những tâm sự, niềm vui nỗi buồn rất đàn bà được Nguyễn Thị Thu Huệ diễn tả tinh tế “Tôi mệt mỏi và thèm nói với anh những chuyện con con như em Thuý tập lẫy, chuyện nó đi tướt mọc răng” (Hình bóng cuộc đời)... Ngoài ra chị còn thành công ở diễn tả nội tâm của người phụ nữ lo về tuổi tác và nhan sắc: “Sao đến bên gương và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt sùm sụp, dưới mắt mòng mọng sưng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những đầu tăm” (Giai nhân). Có thể nói người đàn bà trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ luôn cảm nhận về “cái già đang ập đến” và ngôn từ miêu tả nỗi lo lắng này trong tâm trạng phụ nữ  của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng khác biệt.

Cây bút nữ này đã thực sự làm người đọc xúc động với những trang viết về tình mẫu tử, diễn tả những cảm xúc xác thực của người đàn bà “thèm có con. Thèm được làm mẹ” (Người đàn bà ám khói); nỗi đau của người mẹ phải xa đứa con thân yêu “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé bỏng thơm tho như một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò” (Tân cảng). Nỗi lòng của những bà mẹ có con gái lớn cũng được Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện rất đạt: “Mẹ bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình không hiểu mày có lấy được chồng không. Nằm ngẩn một lúc, nhớ ra là mày đã có chồng, có con tao mừng không thể tưởng được” (Biển ấm).

Trời phú cho phái nữ trái tim nhạy cảm, suy nghĩ của họ thường mang màu sắc cảm tính, họ quan sát nắm bắt hiện thực bằng trực cảm… Khi đọc tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ chúng ta bắt gặp không biết bao nhiêu cặp từ “hình như” chảy qua những dòng độc thoại nội tâm rất phụ nữ, những do dự, những tâm trạng lo lắng. Xu hướng sử dụng với tần suất cao lớp từ đặc tả những khoảnh khắc của tâm trạng, bộc lộ lối cảm nhận  trực giác tạo nên sức ám gợi với người đọc, tôi nghĩ, rất đặc trưng cho người viết là phụ nữ.

Tái hiện hiện thực tâm lý qua độc thoại nội tâm bằng ngôn ngữ trực giác và linh cảm, cây bút truyện ngắn này đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến thái của tâm hồn con người, đặc biệt là phụ nữ. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ người đọc cảm nhận đó là tiếng lòng của người phụ nữ viết nên từ những trải nghiệm. Dù là lời lẽ góc cạnh hay những khẩu ngữ đời thường gần gũi, hay  ngôn ngữ mang sắc thái nữ, thì ẩn sau những câu chữ vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận được viết ra từ sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng.

Giọng điệu độc thoại giãi bày tâm sự thường gặp ở đây mượn hình thức tự bạch. Hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ được viết dưới dạng người kể chuyện xưng tôi. Với hình thức này người kể chuyện tham gia vào câu chuyện như một nhân chứng, cũng là cách làm tăng độ tin cậy của bạn đọc đối với tác phẩm. Nhân vật xưng tôi tự kể chuyện mình, bộc bạch những nỗi niềm tâm sự, suy tư, cảm xúc của mình. Đứng ở điểm nhìn trần thuật này nhiều trường hợp giọng điệu tác giả và giọng điệu nhân vật hoà làm một.

Với người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, các chuyện ngắn này bộc lộ xu hướng viết “như một nhu cầu trình bày những trải nghiệm của bản thân”. Người kể chuyện lúc này xoá đi khoảng cách trần thuật của mình để đối thoại với độc giả. Nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự bộc bạch nỗi lòng của mình. Cũng có đôi khi người đọc thấy dường như “Nhà văn tự đưa mình vào tác phẩm” bộc lộ nhu cầu giãi bày tâm sự qua nhân vật. Một số truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ dù người kể ở ngôi thứ ba nhưng vẫn mượn giọng tự bạch.

Bằng độc thoại nội tâm, tác giả đã diễn đạt những giằng xé, dằn vặt của nhân vật trước biến cố cuộc đời, tạo nên giọng điệu thâm trầm sâu lắng. Trong các tác phẩm độc thoại nội tâm như là sự giải toả tâm trạng, nhân vật thường đặt câu hỏi cho chính bản thân mình: “Sao tôi thấy cô đơn và sợ cuộc sống thế này” (Mi nu xinh đẹp), thừa nhận với mình: “Tôi thấy trống trải và hụt hẫng” (Biển ấm), khẳng định cho chính mình: “Tôi tin rằng mình lại có tình yêu bởi vì tôi mất nó quá lâu rồi” (Cát đợi).

Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng của nhà văn. Với sự chi phối của cảm hứng về cái bi, truyện của cây bút này mang giọng xót xa khinh bạc, đặc biệt là khi nhìn vào mặt trái của cuộc sống, vào những éo le khôn cùng của  những “lỉnh kỉnh, dở dang của cuộc sống”, những ảo tưởng tình yêu tan vỡ, trống trải và hụt hẫng sau những nỗ lực để bằng mọi giá có được người đàn ông của đời mình...

Giọng điệu này có trong nhiều truyện như: Người đàn bà ám khói, Hoàng hôn màu cỏ úa, Thiếu phụ chưa chồng, Một chiều mưa…

Nguyễn Thị Thu Huệ thường viết về cái nhìn đầy nghi kỵ, thậm chí là khinh bạc với giới đàn ông sống thực dụng. Đàn ông trong tác phẩm của chị thường là nhân vật gây ra những đau khổ cho nhiều phụ nữ đặc biệt là những cô gái trẻ ngây thơ và cả tin. Người đàn bà biết rõ nỗi cô đơn ngày càng thắt chặt, nên những dòng độc thoại nội tâm của họ được Nguyễn Thị Thu Huệ diễn đạt rất sâu sắc. Những nhân vật nữ trong truyện ngắn của  tác giả nữ này suốt cuộc đời không tìm thấy điểm tựa và họ chua chát khi nhận ra điều đó: “Chị hay khóc với tôi và cho rằng đàn ông thì cần thật nhưng tốt nhất là không nên có” (Hoàng hôn màu cỏ úa).

Ngôn ngữ độc thoại biểu thị sự xót xa khinh bạc của Nguyễn Thị Thu Huệ  tỏ rõ một sự đồng cảm sâu sắc. Ngôn ngữ độc thoại đó còn hài hước châm biếm thể hiện qua cách miêu tả hiện thực trong tâm tưởng mang sắc thái bi hài: Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng nên hình tượng người trí thức trong hoàn cảnh túng quẫn về kinh tế, thay vì nuôi dưỡng những ý tưởng khoa học, hằng ngày anh ta phải nuôi chó Nhật để mưu sinh. Cũng dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thị Thu Huệ, người đàn ông trong Hậu thiên đường thảm hại ở cả hai tư cách “làm chồng và làm người tình”…; những đấng nam nhi đại trượng phu trong con mắt những nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ được phác họa là: “những anh chàng thương gia thì lạnh lùng, thô lỗ. Chàng Việt kiều thì ki bo, bủn xỉn. Nhà thơ thì yếu đuối, bệ rạc” với cái mặt: “méo mó, vẹo vọ như oản bẹp” (Tình yêu ơi ở đâu).

Có thể nói giọng điệu độc thoại châm biếm, hài hước đem đến cho cây bút nữ này một âm hưởng riêng trong các truyện ngắn phê phán. Những dòng độc thoại nội tâm của các nhân vật trong các tác phẩm thể hiện cái nhìn hiện thực mang tính dân chủ của người viết. Với thái độ không khoan nhượng những nghịch lý trớ trêu của cuộc đời, các trang viết của Nguyễn Thị Thu Huệ góp phần tái hiện bức tranh hiện thực nhiều chiều.

Quyết liệt khi miêu tả những dòng độc thoại nội tâm thể hiện những khát khao rất đàn bà nhưng cũng có khi giọng trữ tình độc thoại đằm thắm trở thành âm điệu chính trong tác phẩm của chị. Trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường có cái gì đó không thuần nhất, thậm chí đối chọi nhau chan chát, lúc bạo liệt táo tợn, lúc lại dịu dàng đến bất ngờ. Chao chát, dịu dàng ngây thơ và từng trải, đau đớn và tin tưởng cứ trộn lẫn trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ.

Giọng điệu trữ tình đằm thắm một mặt khơi sâu vào cảm xúc chủ quan của nhân vật, một mặt lại khơi gợi ở người đọc những khoảnh khắc rung động tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống. Dù với tình cảm đậm nhạt khác nhau, sự tồn tại cả hai mặt đối lập này trong cùng một cây bút không phải là điều khó lý giải. Bản tính nữ và khát khao đấu tranh cho sự bình quyền, được lên tiếng trước những bất công trong đời sống, trước những thực trạng tinh thần của con người, đã tạo nên tính đa cực của ngòi bút. Đó là bằng chứng về sự đổi mới tư duy văn học và sự giải phóng ý thức cá nhân - một nhu cầu vừa mang tính nội tại vừa chịu ảnh hưởng của xu thế thời đại.

Từ ngôn ngữ độc thoại trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ, tôi nhận thấy tư duy nội hướng là một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối đến các phương thức diễn đạt góp phần vào sự phát triển, vận động của truyện ngắn Việt Nam.

Ngôn ngữ độc thoại là một phần quan trọng của tác phẩm văn chương. Cùng với ngôn ngữ đối thoại nó hoàn chỉnh tác phẩm ở góc độ ngôn ngữ. Qua việc khảo sát ngôn ngữ độc thoại trong tập “37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”, tôi nhận thấy một lối tư duy mới, cách cảm, cách nghĩ mới mang đậm màu sắc nữ giới. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ góp phần tạo nên một giọng điệu mới trong giai đoạn văn chương hiện đại sau 1975 với những sự nhìn nhận đánh giá về một thế giới đa cực của hiện tại.

LỘC HOÀNG LÊ NA
Nguồn: NVTPHCM




Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn: Một đời tài hoa luôn yêu mê đắm

“Tài hoa, lịch lãm, chơi ngông, chân thành và hết lòng vì bạn”… đó là những lời ngắn gọn nhất mà bạn bè, người thân của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn nhận xét về ông. Thật tình cờ, tôi đến thăm gia đình ông lại đúng vào ngày rằm tháng 7, mùi thơm của nén hương trầm đang thắp trên ban thờ ông khiến cho không gian trong căn phòng trên gác 2 của ngôi biệt thự cổ như tĩnh lặng hơn.
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn cùng vợ và con gái lớn

Đổi ô tô lấy một cây đàn

Đoàn Chuẩn (1924-2001) sinh ra ở Cát Hải, Hải Phòng nhưng lớn lên ở Hà Nội, là con trai của chủ hãng nước mắm Vạn Vân nổi tiếng thời bấy giờ. “Phải lòng”  tiếng đàn guitar Hawaii, ông tự mày mò học rồi viết nên những bản nhạc lay động biết bao thế hệ người nghe.

Ngôi nhà của gia đình Đoàn Chuẩn nay vẫn ở số 9 phố Cao Bá Quát, từ ngày ông bà mất, con cháu ông đã dùng căn phòng xưa ông vẫn thường ở vừa làm nơi thờ phụng vừa để làm phòng lưu niệm với rất nhiều hình ảnh, hiện vật gắn bó với ông suốt 77 năm cuộc đời.  Kể về cha mình, nghệ sĩ Đoàn  Đính thường bắt đầu bằng câu: “Cụ nhà tôi ngày xưa…”. 

Xưa nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đẹp trai, phong lưu, cùng một lúc sở hữu tới 6 chiếc xe ô tô, trong đó có một chiếc giống hệt xe của Thủ hiến Bắc kỳ. Sinh thời, tài tử Ngọc Bảo - người được coi là hát nhạc Đoàn Chuẩn quyến rũ nhất đã phải thừa nhận: “Tôi là tay chơi có hạng đất Bắc kỳ nhưng vẫn thua xa Đoàn Chuẩn”. Cả Việt Nam ngày đó chỉ có 2 chiếc xe Cadillac, vì mê tiếng đàn guitar Hawaii, ông đã đổi cả chiếc xe lấy một cây đàn. Cây đàn đó, giờ gia đình ông vẫn nâng niu cất giữ như bảo vật. Nghệ sĩ Đoàn Đính tiết lộ, ngày 14-9 tới đây, trong chương trình ca nhạc “Thu về trên phố” diễn ra tại Cung Hữu Nghị Hà Nội, ông sẽ trình tấu bản “Chuyển bến” và đệm đàn cho ca sĩ  Ánh Tuyết hát bằng chính cây đàn cha ông để lại. Cây đàn đó cho đến nay đã thuộc dạng cổ, nhưng tiếng vẫn hay, gỗ khô nhưng không cong vênh, âm phát ra ngấm vào từng thớ gỗ, cộng hưởng ngân rung. “Tôi sẽ mang cây đàn đó ra chơi cho khán giả nghe, hy vọng sẽ được cha tôi phù hộ để làm cho bản nhạc càng thêm quyến rũ” - nhạc sĩ Đoàn Đính  chia sẻ.

Đoàn Chuẩn từng được mệnh danh là “Ông hoàng nhạc tình”, “Công tử Bạc Liêu xứ Bắc” rồi “Nhạc sĩ của mùa Thu”... Người kính trọng cái tính quân tử cũng nhiều, người đắm đuối với những tình khúc của ông cũng lắm và từ đó người ta truyền tai nhau những giai thoại. Nghệ sĩ Đoàn Đính bảo, có giai thoại đúng, có giai thoại… chưa từng xảy ra, nhưng gia đình ông không đi thanh minh bao giờ. Giai thoại đó ra đời cũng bởi bạn bè, khán giả quá yêu quý ông mà thôi. Giờ mỗi khi kể về tính “chơi ngông” của Đoàn Chuẩn, người ta vẫn thường nhắc chuyện, nhạc sĩ họ Đoàn có đem lòng yêu mến một cô gái. Bấy giờ ở Hà Nội cũng có một công tử nhà giàu khác thích cô. Có hôm, ông đến đón cô gái đó đi chơi thì thấy ô tô của vị công tử kia đỗ ở cửa từ bao giờ. Thế là Đoàn Chuẩn liền cho 2 chiếc xe khác đến “khóa” đầu, “khóa” đuôi, khỏi lùi, khỏi tiến.

Còn ông thì ngang nhiên vào đón người đẹp đi. Lại có dị bản rằng, lần đó Đoàn Chuẩn cho 3 chiếc xe đến chặn đầu đuôi, chặn cả phía bên cạnh. Dị bản này được một nhạc sĩ có tiếng, kể trong đêm nhạc Đoàn Chuẩn nhiều năm về trước. Khi gia đình Đoàn Chuẩn gặp được nhạc sĩ kia thắc mắc bảo “Không có chuyện đó đâu!” thì vị kia vui vẻ trả lời: “Ôi, đã có chuyện hai chiếc xe chặn trước chặn sau, tôi cho thêm một cái chặn ngang thì có sao đâu”. Chỉ có một sự thật là, mỗi bài hát mà Đoàn Chuẩn viết ra luôn gắn với một bóng hồng nào đó. Đa sầu đa cảm vốn là tính cách của ông. Ông thường bị mê hoặc bởi sắc đẹp, yêu rất cuồng si.
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (trái) và người bạn tri kỷ Từ Linh

Tình bạn đẹp và bí ẩn

Tên tuổi Đoàn Chuẩn, sự nghiệp gia đình và cuộc đời rất sáng rõ. Nhưng còn cái tên Từ Linh, cái tên thường xuất hiện trên mỗi bản nhạc của Đoàn Chuẩn là ai thì không nhiều người biết. Người thì bảo đó là một nhà nhiếp ảnh, người thì bảo đó là lái xe của gia đình Đoàn Chuẩn cũng có khiếu thơ ca nhạc họa. Nghệ sĩ Đoàn Đính khẳng định, Từ Linh là bạn thân của cha mình, thân đến nỗi cả gia đình coi như ruột thịt. Nhiều tác phẩm do chính Đoàn Chuẩn sáng tác nhưng cũng vẫn ký “Đoàn Chuẩn - Từ Linh”. Còn vì sao hai cái tên thường song hành với nhau thì khi còn sống, chưa bao giờ vị nhạc sĩ tài ba này giải thích. Đó mãi mãi là một bí ẩn và là một kỷ niệm đẹp giữa hai người. Và đã là kỷ niệm đẹp thì đừng nên tách bạch rằng phần này là của ai, phần kia ai sáng tác. 

Khi được hỏi về những bóng hồng đi qua đời của cha mình, nghệ sĩ Đoàn Đính đã cho rằng: “Đó cũng là chuyện thường tình của nghệ sĩ, họ có thể yêu rất nhiều, yêu rất đắm say để tìm cảm hứng sáng tác, nhưng tôi biết với cha tôi, đó chỉ là những mối tình trong âm nhạc, còn đời thường, ông là một người chồng, người cha vô cùng nghiêm túc và trách nhiệm với gia đình”. Quảng giao, rộng lượng, chân thành với bạn bè nhưng cũng không kém phần ngông nghênh, nhưng với tư cách là người thầy - người cha, Đoàn Chuẩn lại vô cùng nghiêm khắc. Cái thời ông mở lớp dạy guitar Hawaii, ông thường xuyên thức cả đêm chép nhạc từ đĩa than để dạy học trò, kiên nhẫn chỉ bảo từng li từng tí, có cậu học trò rất có năng khiếu, nhưng chỉ một lần đùa cợt trong giờ học là ông đuổi luôn, xin  thế nào cũng không lay chuyển được.

Đoàn Chuẩn có 6 người con, nhưng chỉ có duy nhất Đoàn Đính, con trai thứ 3 là đam mê và có năng khiếu với guitar Hawaii. Năm đầu tiên, ông cho Đoàn Đính theo học một thầy giáo ở Cửa Nam, khi kiến thức nhạc lý căn bản đã vững, lúc đó ông mới trực tiếp chỉ dạy. Có lần con lơ đãng, không thuộc bài, ông bắt ngồi đàn đúng 5 tiếng đồng hồ. “Ông cụ nhà tôi có cái đặc biệt là không khen con bao giờ, lúc ưng lắm ông cũng chỉ: “Chơi như thế là được đấy!”. Có lẽ thế mà giờ đây tôi chơi đàn cũng được” - Đoàn Đính nhận xét về bản thân mình cũng bằng một câu nói giống hệt cha mình khi xưa.

Năm 2001, ông thanh thản về cõi vĩnh hằng, Hà Nội xót xa tiễn đưa một nghệ sĩ tài hoa. Trước lúc mất,  người nhà hỏi ông có muốn được nghe lại những bản nhạc mà ông đã từng viết nên hay không. Ông gật đầu và ra dấu muốn được nghe lại bản “Vĩnh biệt” (còn có tên khác là “Vàng phai mấy lá”) qua giọng ca Ánh Tuyết.

QUỲNH VÂN
Nguồn ANTĐ


Bài đăng mới nhất

TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI CUỘC THI “MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI”

Sau 8 tháng diễn ra, cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức (với sự tài trợ giải t...

Bài đang đọc nhiều