Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018

Văn chương Việt và khủng hoảng mang tính nhân loại

Vẫn quá sớm để nói đến việc khủng hoảng văn chương. Vì cứ mỗi lần giới phê bình lên tiếng thì văn chương tự khắc có lối mở, thoát hiểm ngoạn mục, khiến mọi chỉ trích trở thành khôi hài. Cuộc khủng hoảng tiểu thuyết Mới Mới vào thập niên 1950 là một minh chứng.
GS. TS Lê Huy Bắc

Thêm nữa, đòi hỏi văn chương ngay lập tức sản sinh ra kiệt tác là điều không thể. Phải mất cả thập kỉ, thậm chí là vài thập kỉ, nhân loại sáu tỉ người mới có thể đón đọc được một vài tác phẩm thực sự có giá trị. Qua thời gian, số còn lại chỉ là một vài đại diện tiêu biểu nhất mà thôi. Chẳng hạn thời Phục hưng bây giờ còn lại gì ngoài Don Quixote, Hamlet và vài ba cái tên khác?

Như thế, sự khủng hoảng văn chương xem ra là của mọi thời. Thời nào cũng có và bằng cách nào đó thời nào văn chương cũng sống lại, mạnh mẽ hơn xưa. Vấn đề đặt ra là, ngày nay người ta viết văn như thế nào và người đọc cần loại văn chương nào. Câu trả lời đâu dễ. Khảo sát tình hình xuất bản Việt những năm gần đây, ta thấy, hầu như chẳng có sự đổi mới lớn lao nào. Vẫn đa phần là những cây bút cũ với lối viết thì chẳng thể nào cũ hơn. Theo cách, có một cốt truyện, một cảm hứng thường trực, nhà văn miệt mài gõ bàn phím để cho câu chữ dày lên thành tác phẩm. Chưa có nhiều động thái mang dấu hiệu thực sự của cuộc cách tân văn chương. Trong khoảng mười năm trở lại đây, văn chương Việt như thể vẫn giẫm chân tại chỗ, với nhịp điệu “bước đều bước” nhưng không nhúc nhích lấy một li. Những cái bóng Tố Hữu, Lê Đạt, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ… dần chìm khuất mà chẳng thấy hậu sinh nào nổi lên.

Việt đã vậy mà thế giới cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Rải rác vẫn xuất hiện vài gương mặt có những nỗ lực nhất định để nói được tiếng nói của văn chương thời đại. Chẳng hạn, Nhật có hai đại diện đang sung sức. Đó là Haruki Murakami và Banana Yoshimoto. Họ viết hay, hấp dẫn. Tác phẩm của họ được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được tiêu thụ hàng triệu bản… Tuy nhiên, đọc kĩ thì thấy họ vẫn chỉ là hạng hai so với bậc tiền bối Yasunary Kawabata. Tương tự, sau bộ tứ lừng danh John Updike, Don DeLillo, Thomas Pinchon và Philip Roth thì Hoa Kì vẫn chưa xuất hiện gương mặt nào khả dĩ để “đánh bật” các bậc tiền bối kia. Xem ra thì cái thời khủng hoảng văn chương đã đến thực sự rồi.

Khủng hoảng văn chương còn có thể kiểm chứng qua khủng hoảng giải thưởng. Theo dõi giải Nobel văn học hai năm lại đây ta thấy sự biến diễn ra rất rõ. Cả hai lần trao giải, một cho tác phẩm phóng sự và một cho tác phẩm nhạc được biện minh khôi hài là chất thơ trong nhạc.

Nobel 2016 được dành cho Bob Dylan. Đây là vinh quang trái khoáy mà ngay đến cả nằm mơ Dylan cũng chẳng thể nào tưởng tượng nổi. Buồn cười hơn là ngay sau đó, không biết vô tình hay cố ý, rất nhiều tờ báo giật tít “Ca sĩ, nhạc sĩ Bob Dylan giành giải Nobel văn học 2016”. Rõ ràng, suốt đời Dylan chỉ có ca hát, ông đâu có dính dáng gì đến văn chương. Biết mình nhận được vinh quang đó, Dylan lúng túng mãi thời gian sau mới chấp nhận giải thưởng.

Việc trao Nobel cho người thiên về phóng sự và một nhạc sĩ chính hiệu đã phần nào chỉ ra sự khủng hoảng lớn lao trong sáng tác văn chương. Các tác phẩm vẫn không ngừng được viết ra, các giải thưởng vẫn không ngừng trao không có nghĩa văn chương vẫn trên hành trình gặt hái thành tựu. Xét về mặt nào đó, chính các giải thưởng cũng góp phần tạo nên khủng hoảng.

Vẫn chuyện Bob Dylan, thông thường, một người đầu óc bình thường thì chẳng thể nào xem âm nhạc là văn chương được và chẳng có ai rồ đến mức gọi âm nhạc là văn chương. Nhưng ngẫm kĩ thì hành động đó ít nhiều cũng có cái lí của nó. Việc trao giải Nobel này hướng đến cái đích là mở rộng ranh giới văn chương, không đóng kín văn chương trong các thể loại đã được định hình đông cứng mà cánh lí thuyết phê bình phân chia bấy lâu. Như thế đã rõ, các vị Hàn lâm viện đó nhận thức được sự khủng hoảng.

Thử nhìn lại các giải thưởng Việt được trao những năm gần đây cũng có diễn biến gần như vậy. Ta thấy có hai cách thức được tiến hành, hoặc là “so bó đũa chọn cột cờ”, xem cái nào khả dĩ nhất thì trao thưởng; hoặc là “hồi cố” tặng cho những tác phẩm đã ra đời trước đây. Tình thực mà nói, ngay cả người đứng ra tặng hay ngay chính người được tặng, đa phần đều biết rõ có gì đấy chưa được ổn, bởi lẽ những tác phẩm đoạt giải đó phần nhiều đâu có giá trị cao về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật, đâu có mấy người đọc và bị lãng quên ngay sau khi giải được trao.

Vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào làm suy yếu văn chương đến thế. Hào quang văn chương nhân loại rực rỡ vào thời Hi Lạp cổ đại hoặc gần hơn là vào thời của chủ nghĩa lãng mạn. Lúc đó, con người tôn vinh những giá trị tinh thần, đặc biệt là lối tư duy khai phóng, tưởng tượng bay bổng lạ thường, trên cái nền nhân văn thấm đẫm tình người, tình yêu thương nhân loại tha thiết. Văn chương lấy thiên chức hướng thiện, giam cấm thô lỗ, cục cằn, làm giàu đời sống tâm hồn, phóng thích kí ức… làm nguyên tắc tối thượng để sống còn. Người Hi Lạp có một nền văn chương trác tuyệt vì nó được tôn vinh như là đỉnh cao tri thức, đạo đức và xúc cảm của con người. Con người có thể sống chết vì văn chương. Thơ và kịch rất được đề cao. Đặc biệt, khi một tác giả kịch đoạt giải nhất trong năm thì người đó được tôn vinh hơn cả một vị quân vương. Tương tự, Victor Hugo cũng rất được sùng bái lúc sống. Cả triệu người háo hức đợi ngày tác phẩm của ông được ấn hành. Ngay đến khi chết, người tham dự đám tang ông đông hàng triệu.

Trong khoảng năm mươi năm trở lại đây, nhân loại đâu còn truyền thống tôn vinh văn học đến mức thần thánh. Vẫn xuất hiện nhà văn giỏi, cỡ như Gabriel Garcia Marquez, nhưng ông đâu được sùng bái như Tổng thống Vladimir Putin, Bill Clinton hay ông chủ Microsoft Bill Gates. Vị thế của văn chương vì thế ngày càng xuống cấp. Mối quan tâm của con người giờ đây thiên hẳn sang vật chất và địa vị xã hội. Càng nhiều tiền và quyền lực càng lớn thì càng được đánh giá cao. Hằng năm, người ta miệt mài thống kê có bao nhiêu tỉ phú dollar, ai là người đứng đầu thị trường chứng khoán, chứ mấy ai đi làm thống kê là có bao nhiêu nhà văn nổi tiếng và nhà văn nào là nổi tiếng nhất đâu. Những giá trị tinh thần bị lãng quên đã khiến văn chương ngày càng rơi vào nỗi bi đát.

Gắn với vật chất là các giá trị công nghệ. Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang thu hút hầu hết chất xám của nhân loại vào cuộc chạy đua bất tận về những thành tựu khoa học kĩ thuật. Tiện ích của cách mạng công nghệ thì miễn bàn, nhưng nhiều người lẽ ra đã trở thành nhà văn vĩ đại lại hóa kĩ sư quèn. Ngược lại, có ai đó chẳng thể thành kĩ sư cơ khí bèn chuyển hướng sang sáng tác văn chương, trở thành nhà văn bất đắc dĩ. Sự khủng hoảng nhân loại từ khía cạnh này quả là vượt qua cả giới hạn văn chương. Ngày nay, con người dường như chẳng biết mình là ai, hành động vì lẽ gì mà cứ như những con thiêu thân lao đầu vào những cám dỗ nhất thời để mất đi những giá trị bền vững cao quý.

Muôn đời văn chương cũng đều vì con người. Văn chương luôn đảm trách việc giáo huấn người. Nhưng nếu lộ liễu thì sẽ khó có sức thuyết phục. Văn chương nói theo cách đặc thù, có thể từ nỗi đau để cảm hóa, có thể từ sự mỉa mai để thức tỉnh, có thể từ tiếng cười để tống tiễn những thói tật; văn chương nói lời yêu thương, cảm thông, tha thứ và nghiêm cấm thù hằn… Trên tất cả, văn chương cần vượt qua được sự khủng hoảng của chính nó.

Đỉnh cao của văn chương hiện đại Việt có thể nằm ở thời 1930-1945, có thể ở thời sau 1986 và có thể ở thời nào đó trong tương lai. Điểm lại những mốc này để thấy, đã có những khủng hoảng và văn chương Việt đã vượt qua tuy thành tựu có được không thực sự nhiều. Cũng bị cuốn vào những cám dỗ vật chất và cách mạng 4.0, có lẽ những phần tử tinh túy nhất cho trí tuệ Việt cũng đã nhao vào đó hoặc những nơi mà người ta thấy có thể đảm bảo được công việc và cuộc sống. Bằng chứng dễ nhận thấy nhất của chuyện này là khoảng mười năm trở lại đây, học sinh khối C (thiên về môn văn) đa số những người giỏi đều chọn vào các ngành quân đội và công an, những ngành hầu như chẳng sử dụng nhiều trí tưởng tượng bay bổng, không cần nhiều ngôn từ hoa mĩ, nhưng lại đảm bảo cho họ một cuộc sống tương lai khả dĩ hơn là theo đuổi nghiệp văn đầy bất trắc. Gần như rất hiếm nhà văn Việt có thể sống bằng nghề.

Mỗi thời đại dường như đều lưu tồn hai xu hướng văn học chính. Một dòng mang tính xu thời (có thể gọi là văn học định chế), một dòng phục vụ cho sự tiến hóa (có thể gọi là văn chương khai phóng). Nhà văn xu thời thì thường được hưởng nhiều quyền lợi hơn từ công chúng bình dân và thậm chí là từ giới cầm quyền. Nhà văn khai phóng thì lầm lũi đi trên con đường đơn độc của sáng tạo nghệ thuật, có thể bị hắt hủi, chê bai, nhưng chính họ mới có thể tạo ra sự thay đổi thẩm mĩ. Cá biệt, có số ít nằm giữa hai nhóm này, họ là những kẻ trung dung, sáng tạo vừa phải và xu thời cũng vừa phải. Cả ba hướng sáng tác này đều có “cái dụng” nhất định của nó. Trong nền văn học Mĩ đương đại, Stephen King là một nhà văn định chế. Ông này không có những cách tân làm thay đổi bộ mặt văn học Mĩ nhưng với lối kể kinh dị, ma quái rất truyền thống Mĩ của mình, King đã hớp hồn hàng chục triệu độc giả không chỉ ở trong nước mà còn cả ngoài nước, tạo nên “cơn cuồng King”. King chính là nhà văn phục vụ lợi ích đám đông trước mắt, được đám đông tung hô, kiếm được rất nhiều tiền, nhưng giá trị văn chương đích thực thì chẳng đáng trông cậy.

Những sáng tác kiểu này cũng là nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng văn chương. Bề ngoài thì được nhiệt liệt hoan hô, nhưng ai cũng biết đấy chỉ là thứ văn chương giải trí tầm phào, rất ít, nếu không muốn nói là không có người tìm đọc lần thứ hai. Loại văn chương “đọc một lần vứt xó” thường chiếm tỉ lệ rất lớn trên văn đàn. Chúng tồn tại là nhờ các định chế thẩm mĩ nông cạn đã thành nếp, lười tư duy của người đọc, hoặc khác đi là nhờ nhu cầu giải trí tức thời của con người. Một khi tiêu khiển xong thì chẳng còn ai đoái hoài đến. Trong khi đó, văn chương chân chính thì không bao giờ là “tiêu khiển”, “vứt xó”. Nó là nỗi đau hay hạnh phúc cứ đeo riết lấy hồn người dài lâu.

Xem ra thì mọi phân tích hay định giá, phân hạng văn chương đều có chỗ bất cập. Những gì được nói đến ở trên chỉ là sự phân giải cho rõ ý chứ thực tế thì phức tạp hơn nhiều. Trở lại với mối quan ngại về cái gọi là “văn chương lâm nguy” (chữ của Todorov) của người Việt, ta thấy nổi lên vấn đề là chúng ta hầu như ít có tác phẩm xuất sắc khoảng mười năm trở lại đây. Tình thế này đòi hỏi cánh sáng tác ngôn từ cần nỗ lực hơn nữa. Tuy nhiên, sáng tạo văn chương là chuyện thiên mệnh. Không ai có thể dạy nhà văn viết như thế nào và không phải cứ muốn làm nhà văn thì có thể trở thành nhà văn. Khi viết, nhà văn hoàn toàn không thể đoạn tuyệt với cái bóng của chính anh ta. Tài năng của nhà văn được ghi nhận ở chỗ anh ta có thể vượt thoát hoặc thoát được bao xa dấu ấn văn hóa đã định thành quán tính trong cách nghĩ, anh ta có đổ chút mồ hôi nào để vật lộn với chính cái bóng quái ác đó hay không. Văn chương chân chính ra đời trên những lối rẽ. Càng nhiều lối rẽ, càng nhiều mê lộ, tác phẩm đó càng thu hút sự giải mã bất tận từ phía người đọc. Mọi sự đơn giản đều giết chết văn chương.

Cần phân biệt giữa sự phức tạp làm đỏm và sự đơn giản trí tuệ, minh triết. Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn hay nhiều truyện ngắn của Phan Việt được viết theo lối tối giản. Những tác phẩm văn học này khước từ sự “khua môi múa mép” ngôn từ bề mặt. Nhà văn tôn sùng sự giản đơn đến tận cùng. Nhưng cái sự giản đơn đó đâu hề đơn giản bởi mỗi chi tiết nhỏ nhoi của tác phẩm đều ẩn chứa trong nó những giá trị nhân văn sâu thẳm, có thể mở hướng mê lộ vào nhiều nẻo khuất tâm hồn.

Chủ nghĩa tối giản trong văn học có thể xem là điểm nối giữa văn chương và báo chí. Ngày nay, nhân loại đang tiến dần đến cách viết dung hòa đó, được định danh là thể văn báo chí (Journalism). Nó pha trộn lối viết hư cấu truyền thống với bút kí, hồi kí, phóng sự, du kí, phỏng vấn… trong một câu chuyện nửa thật nửa hư. Vì lẽ này mà Nobel văn chương năm 2015 được trao cho nữ nhà văn - nhà báo Svetlana Alexievich với “lối viết văn phức điệu”, nơi tính báo chí chi phối mạnh lối tư duy hư cấu của nữ văn sĩ.

Văn chương Việt cũng bắt kịp xu hướng báo hóa. Gần đây, các tác phẩm tùy bút được xuất hiện nhan nhản trên các quầy sách. Có lẽ cần có tên gọi mới cho loại hình văn xuôi này, bởi chúng không hẳn là tùy bút như quan niệm bấy nay. Nếu không thì đơn giản, ta có thể gọi đó là truyện, nhấn mạnh đặc trưng kể về sự kiện xen bộc lộ cảm xúc... Lối viết này có triển vọng là sẽ khai sinh ra một dạng văn chương mới. Đặc điểm của nó là vừa thực vừa ảo, vừa hư cấu vừa phi hư cấu, vừa ghi chép vừa bịa đặt…

Văn chương cũng như con người, nhiều khát vọng nhưng ít khi thành hiện thực. Vậy nên, ngay cho dù phải thất bại thì giá trị của nó cũng cứ được ghi nhận ở chỗ khao khát cống hiến chút gì đó cho đời. Ta hãy cùng hi vọng về những áng văn khổng lồ Việt trong một tương lai không xa.

 LÊ HUY BẮC

_______________

Đây là tham luận của GS. TS Lê Huy Bắc tại Hội thảo toàn quốc Các xu hướng vận động của văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay: thực trạng và định hướng phát triển do Hội đồng Lí luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Quảng Ninh ngày 5.12.2017.

Nguồn: VNQĐ


Cõi người trong truyện ngắn của Elena Pucillo Truong

Từ những góc nhìn sáng tạo, nhà văn Elena Pucillo Truong luôn có ý thức làm mới ngòi bút của mình để đem đến cho người đọc những khoảnh khắc thú vị bất ngờ của hiện hữu. Đằng sau mỗi câu chuyện về những điều tưởng chừng rất nhỏ của mỗi thân phận là những thông điệp về Cõi Người muôn màu, muôn vẻ, vừa quen vừa lạ. Thông điệp đó có lúc là lời cảnh báo, có khi là sự ngợi ca,  phê phán, đồng tình, lúc lại là nỗi ưu tư, niềm trắc ẩn, mong ước, tin yêu, hy vọng… và trên hết là tinh thần trân trọng những giá trị nhân văn, nhân bản với khát khao tha thiết hướng về những gì tốt đẹp nhất cho con người và vì con người…
Nhà văn Elena Pucillo Truong

Đi vào thế giới của truyện ngắn, có thể nói là đi vào những khoảnh khắc hiện hữu, ở đó hiện thực rộng lớn của cuộc sống đã được thâu tóm trong một cái nhìn cô đọng, đặc quánh những ưu tư của nhà văn về Cõi Người. Thế nên, khi bàn về truyện ngắn, không phải ngẫu nhiên, Edgar Allan Poe quan niệm: “Trong cấu trúc tổng thể của nó, không có một từ nào mà sự thể hiện khuynh hướng trực tiếp hoặc gián tiếp của nó không được nhà văn sắp đặt trước. Với ý nghĩa đó, bằng tài năng và sự chăm sóc kỹ lưỡng của nhà văn, tác phẩm như một bức tranh hiện lên với trọn vẹn màu sắc, đưa lại cho người đọc sự thỏa mãn đầy đủ nhất”.  Poe đã rất đúng khi xác quyết công phu của mỗi nhà văn khi kiến tạo truyện ngắn và hiệu quả lan tỏa, tác động không nhỏ đến bạn đọc của thể loại này. Truyện ngắn thường mang lại bức tranh về cuộc sống dài và rộng hơn khuôn khổ chật hẹp về mặt hình thức của nó, điều này có thể thấy qua  truyện ngắn của nhiều nhà văn như: John Steinbeck, Hemingway, Tchekop, Jane Joyce, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê… Những truyện ngắn trong tập Vàng trên biển đá đen của Elena Pucillo Truong (do Trương Văn Dân dịch từ nguyên tác tiếng Ý) cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo này.
        
Tập Vàng trên biển đá đen chỉ gồm mười bốn truyện, nhưng ngay từ những nhan đề của truyện đã gợi cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị, hấp dẫn về cuộc sống, con người trong cõi nhân sinh. Đó là những câu chuyện mà ở đó ẩn chứa bao buồn vui của Cõi Người trần thế với đủ cả hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục mà mỗi phận số là một chứng nhân như: Con chim nhỏ trong lồng; Dải ruy băng màu tím; Phía sau sự thật; Búp bê bằng sáp; Chút hơi ấm cuối cùng; Trên đỉnh núi thiêng; Thư viết cho mẹ; Cuộc Săn mồi; Cuộc hẹn ở sân ga; Giấc mơ thu ngọt ngào; Đợi chờ; Món quà đặc biệt; Vàng trên biển đá đen; Dòng máu nhiễm độc.
    
Không viết về những gì lớn lao huyễn hoặc, xa lạ với cuộc sống con người, truyện ngắn của Elena như những lời tâm tình nhẹ nhàng thủ thỉ về những câu chuyện đời thường đang diễn ra đâu đây trong Cõi Người gần gũi:  Đó là sự rạn vỡ của cuộc sống gia đình nơi tưởng chừng là thành trì vững chắc của những tình cảm thiêng liêng, vậy mà giờ đây những tình cảm ấy cũng đang bị mai một, bị bào mòn; Đó còn là trạng thái cô đơn với những âu lo, khắc khoải của con người trong một xã hội còn quá nhiều điều bất ổn, với những nghịch lý buộc con người phải lựa chọn mà sự lựa chọn nào cũng dẫn đến bi kịch… Đây chính là một thông điệp hiện sinh mà các truyện ngắn của Elena thức nhận cho con người trước cạm bẫy của cái ác, cái xấu, cái giả dối, trí trá được ngụy trang bằng những mặt nạ nhân nghĩa mỹ miều mà nếu không cảnh giác với nó con người sẽ rơi vào hố thẳm…
       
Song, dù viết về những chuyện quen thuộc đời thường nhưng Elena luôn có cái nhìn tinh tế, đa diện, nhiều chiều với những phát hiện sâu săc, mới lạ về cõi nhân sinh trong sự chuyển động không ngừng của nó. Có lẽ chính điều này đã làm cho truyện của chị ấm nồng hơi thở cuộc sống, tạo nên sức hút riêng khó lẫn của ngòi bút Elena.
      
Nhìn tổng thể, truyện ngắn của Elena đã phác họa gương mặt xã hội công nghiệp như một bức tranh lập thể loang lổ, một khối vuông rubic hỗn loạn muôn màu, trong đó mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng trở nên lạnh lùng, rời rạc, nhiều giá trị của Cõi Người bị hủy hoại nghiêm trọng trong đó có nền tảng văn hóa gia đình. Với trải nghiệm cuộc sống sâu sắc, Elena đã thấu hiểu thân phận những con người sống trong bi kịch gia đình khi các thuần phong mỹ tục vốn là những giá trị truyền thống về văn hóa đã được tôn vinh ngày nào nay đang bị chà đạp không thương tiếc.  Nỗi đau ấy như những vi mạch thấm trong từng trang viết của nhà văn và bật lên những tiếng kêu thảng thốt giữa sa mạc cuộc đời mà đồng tiền được tôn thờ như một thứ “đạo”, còn tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái thì bị vùi lấp một cách tàn nhẫn. Nạn nhân của những bi kịch này không ai khác, họ là những bà mẹ, ông bố bị những đứa con mình từng hết mực thương yêu bỏ rơi trong cô độc.  Những truyện ngắn Con chim nhỏ trong lồng; Dải ruy băng màu tím; Chút hơi ấm cuối cùng để lại trong lòng người đọc bao day dứt, tiếc nuối, cay đắng, xót xa về sự rạn vỡ, mất mát tình cảm quá lớn giữa những người ruột thịt máu mủ trong gia đình. Truyện ngắn Elena đã khẩn thiết rung hồi chuông cảnh tỉnh đối với Cõi Người đang đứng trước thảm họa nhân tính bị hủy diệt bởi những tham vọng và đam mê vật chất tầm thường, như một thứ vi trùng hủy hoại tâm hồn nhân loại; Cõi Người trong truyện ngắn Elena là một Cõi Người mang đậm chất nhân văn - một chất nhân văn như những tia sáng soi chiếu, cứu rỗi lương tri con người đang chìm sâu trong tội lỗi.
       
Truyện ngắn của Elena đã vượt qua giới hạn của những phạm trù đạo đức luân lý của một dân tộc để vươn đến những giá trị nhân văn mang tầm nhân loại mà rõ nhất là tiếng nói hướng đến khát vọng tự do cho con người. Tác phẩm Con chim nhỏ trong lồng là một minh chứng cho vấn đề này.  Câu chuyện tái hiện sinh động trạng thái tâm lý u uất của một bà mẹ bị con trai và con dâu ruồng bỏ, ghẻ lạnh. Hình ảnh “con chim nhỏ trong lồng” đã cho thấy bi kịch đớn đau nhất của bà mẹ không chỉ ở sự đối xử ghẻ lạnh của con cái mà chính là nỗi đau bị tước đoạt mất tự do. Những đứa con ích kỷ, vô lương chỉ biết bản thân mình mà không hề quan tâm đến cảm xúc của Mẹ, bỏ mặc bà quay quắt trong bốn bức tường, trở thành một tù nhân trong chính ngôi nhà của mình. Bà cảm thấy “sống như một kẻ lạ mặt trong nhà của mình vì đứa con dâu mới thật là bà chủ, là người quyết định, và bằng thủ đoạn tàn nhẫn và nham hiểm nó còn cướp mất lòng yêu thương của đứa con trai rồi từng ngày, từng ngày nó còn xéo nát từng mảnh tim tôi”. Bà mẹ khốn khổ rơi vào thảm trạng cô độc triền miên, cảm giác “tôi sống mà như đã chết... sống như một kẻ lạ mặt trong nhà của mình” là cảm giác rợn ngợp, ghê sợ nhất đối với một con người mà đáng thương hơn, bà lại là một người mẹ nhạy cảm và rất giàu ân nghĩa.

Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm Con chim nhỏ trong lồng, hơn một lần chi tiết “chiếc khung hình” ghi nhận kỷ niệm tình yêu, tình cảm vợ chồng của bà mẹ được tác giả miêu tả lặp đi lặp lại: “cái mà tôi cần chính là chiếc khung hình đặt trên chiếc bàn nhỏ bên giường (…) tôi bỏ khung hình vào túi áo, đó là kho tàng của tôi”. Có lẽ, trong hoàn cảnh bi đát của thực tại bà mẹ chỉ còn biết nâng niu tấm hình duy nhất còn lại khi cùng “chồng đứng ôm nhau quay lưng về phía biển trong một buổi sáng rực rỡ ánh mặt trời”, như nâng niu một báu vật, như muốn lưu giữ một chút hạnh phúc cuối cùng còn lại trong Cõi Người mà bà trân quí để có thêm niềm an ủi và nghị lực tồn tại trong những ngày còn lại của cuộc đời. Elena đã rất tinh tế khi chia sẻ cùng nhân vật của mình những nỗi đau, sự tiếc nuối và khát vọng hạnh phúc vốn là những hằng số của phận người trong kiếp nhân sinh.. Với sự nghiệm sinh trong “bao nhiêu năm làm kiếp con người” (lời nhạc Trịnh Công Sơn) cùng với sự tinh tế của một người phụ nữ vốn mang trong tâm thức mình sự hợp lưu của hai nền văn hóa Đông – Tây, ELena muốn chia sẻ với chúng ta một thông điệp nhân văn của một tâm thức hiện sinh: Ai cũng có một thời tuổi trẻ hạnh phúc và cũng có một tuổi già sống trong lặng lẽ, cô độc. Và cuộc sống chính là hành trình đi đến cái chết. Qui luật ấy không có ngoại lệ. Vì thế, người trẻ hãy hiểu và trân trọng quá khứ của những người già, bởi đó là quy luật, rồi cũng sẽ đến lượt mình nếm trải… 

Một điều không thể không nói đến đó là sự sắc sảo của ngòi bút Elena trong miêu tả tâm lý của một bà mẹ bất hạnh. Sự căng thẳng, mệt mỏi, bức bối của bà mẹ được nhà văn tái hiện sinh động theo lược đồ tăng dần để khắc họa rõ hơn bi kịch mất tự do của bà mẹ. Bị dồn đẩy đến chân tường của sự cô độc, héo mòn giữa bốn bức tường, cuộc sống chẳng khác nào địa ngục, bà mẹ tội nghiệp giãy giụa mong tìm lối thoát khỏi vòng vây, sinh lực của bà mẹ như ngọn đèn dầu leo lét, cạn kiệt theo ngày tháng: “Tôi thấy khó thở và không ngủ được…Nhiều đêm tôi mò mẫm đi dọc theo tường nhà, như muốn tìm một lối thoát không hề có… Sự khiếp đảm và kinh hoàng đẩy tôi qua lại giữa những chồng gạch xây cao, như con chim bị nhốt trong lồng đang tuyệt vọng tìm cách vượt qua những chấn song để tìm tự do. Cũng như chim, ý thức về sự bất lực của mình, tôi đành phải qui hàng, rồi thẫn thờ và mệt nhọc quay lại giường ngủ. Mở to mắt, tôi trừng trừng nhìn bóng đêm rồi nước mắt cứ trào ra, ướt gối. Bằng những ngón tay run rẩy tôi siết chặt cái kho tàng của mình, phút giây chớp nhoáng của niềm hạnh phúc, như thể nó sẽ giúp tôi thoát khỏi nơi đây, giải phóng khỏi những niềm đau...”.  Giọng tự sự chậm rãi, với sự tưởng tượng phong phú, Elena đã hóa thân vào nhân vật, để dẫn dụ người đọc cảm nhận từng khoảnh khắc của sự tù túng, đớn đau tan nát cõi lòng và khát vọng tự do ở con người, dù đó chỉ là những mong ước trong tuyệt vọng…
  
Kết thúc truyện ngắn Con chim nhỏ trong lồng là hình ảnh bà mẹ: “Thả mình bay qua khung cửa sổ, rơi tự do trong không khí. Trên môi tôi vẫn nở một nụ cười, thật ngọt ngào, để khỏi phải hét lên, sợ làm phiền người khác”. Cái kết khiến người  đọc bàng hoàng thương xót, đồng thời cũng nhận ra đây là kết cục không tránh khỏi của một tấn bi kịch trong một xã hội mà ở đó nhân vị con người không có chỗ đứng. Cái chết của bà mẹ có thể xem là một cách giải thoát (dù đó là cách giải thoát đầy tiêu cực), và cũng là một kết cục tất yếu trong một Cõi Người mà chính ngay cả những người ruột thịt cũng không  biết thương yêu nhau bởi mải mê chạy theo những thứ vinh hoa phù phiếm, vô nghĩa. Niềm tâm tư của bà Cụ khi tìm đến với cái chết để được tự do trong thế giới vĩnh hằng, để thoát khỏi những dằn vặt, khổ tâm và hơn nữa là để đỡ “làm phiền người khác” như cách bà suy nghĩ không khỏi làm lòng ta xa xót và trí ta không khỏi nhưng ưu tư về thân phận con người?!. Truyện ngắn Elena vì thế đã vượt lên khuôn khổ của những bài giáo huấn đạo đức thường tình để vươn đến một tầm cao triết luận mang màu sắc hiện sinh và phải chăng, đây cũng là cách xử lý  nghệ thuật đầy dụng ý để chuyển tải tư tưởng nhân văn của tác giả?!

Nếu Con chim nhỏ trong lồng khiến bạn đọc cảm thương sâu sắc cho thân phận một người mẹ bị chính con mình bỏ quên trong đơn độc thì Chút hơi ấm cuối cùng lại là một câu chuyện thương tâm về người cha bị con cái “lãnh đạm, khinh thường và bạc bẽo” và đây cũng là một dạng khác của bi kịch gia đình và bi kịch phận người trong sân khấu của Cõi Người đầy rối ren. Trong truyện tác giả tập trung khắc họa hình ảnh người cha khốn khổ chạy trốn khỏi những nơi “hoành tráng” (như bệnh viện, ngôi nhà của các con) nhưng hoang lạnh, thiếu vắng yêu thương. Trong sự tuyệt vọng tột cùng, người cha bấu víu chút “hơi ấm cuối cùng” bằng cách trở về quá khứ cùng giấc mơ hạnh phúc bên người phụ nữ mình yêu thương đã “không còn trên cõi đời này nữa”. Dưới ngòi bút của Elena chân dung người đàn ông bất hạnh hiện lên lúc chới với đắm chìm trong hoài niệm, khi u uất trở về thực tại  đầy day dứt, xót xa: “Em yêu ơi, em có biết sự cô đơn là một căn bệnh trầm kha?(...) Anh không thể tưởng tượng là em sẽ đau đớn như thế nào khi nhìn thấy những đứa con cười chế diễu khi nhìn những bức hình của chúng mình âu yếm bên nhau, chứng kiến những quyển sách yêu thích bị ném đi tung tóe. Chúng đã vứt đi mọi thứ, như loại bỏ mình, bởi vì sự hiện hữu của chúng mình lúc tuổi già đang làm phiền chúng (…). Đủ rồi! Anh không muốn phung phí những giây phút cuối cùng này để nghĩ đến những kẻ vô tình bạc nghĩa (…). Khô khốc và tham lam, đấy chính là những thứ mà các con đã trở thành (…) Nhưng nỗi đau lớn nhất vẫn là bị bao vây bởi đám diều hâu tham ác này, chúng đang chờ đợi và thèm rỏ dãi đoạn kết đời anh để thừa hưởng gia tài, rồi sau đó còn lớn tiếng rêu rao là đã ở kề cận cha mình cho đến phút lâm chung! Bọn khốn kiếp! Giả nhân giả nghĩa!”. Còn gì khổ tâm, phiền não hơn khi những người làm cha, làm mẹ nhận ra sự vô cảm, vô ơn, giả dối, tàn nhẫn của những đứa con mà họ đã đứt ruột sinh thành, nuôi nấng?!

Với cách xử lý nghệ thuật tinh tế, khéo léo, sử dụng phương thức tự sự kiểu độc thoại nội tâm, giọng điệu trần thuật khi nhỏ nhẹ, dịu dàng, khi giận dữ, đau khổ tác giả đã giúp bạn đọc hình dung rõ “con người bên trong con người” với thế giới tinh thần bị tổn thương đau đớn đến tê dại của người cha có những đứa con phản phúc, vô đạo. Truyện ngắn Chút hơi ấm cuối cùng đã lột mặt nạ những đứa con độc ác, tàn nhẫn, tột cùng vô liêm sỉ trong xã hội kim tiền láo nháo. Đồng thời, với trách nhiệm và lòng yêu thương con người, Elena gửi đến bạn đọc thông điệp mang ý nghĩa cảnh báo mạnh mẽ:  ma lực đồng tiền và những ham muốn, tham lam vật chất luôn ẩn tàng sức mạnh hủy hoại nhân tính một cách lạnh lùng, tàn khốc nhất;  nếu mỗi chúng ta không giữ bản lĩnh trước ám ảnh lấp lánh ma mị của đồng tiền, sự lôi cuốn của vật chất thì cuối cùng con người cũng chỉ là một con vật vô cảm, không có trái tim mà thôi, và cõi Người sẽ đến ngày tận thế!  

Ở thế kỷ XIX, nhà văn hiện thực vĩ đại người Pháp Honoré de Balzac (1799- 1850) cũng đã từng cảnh báo nhân loại về sức công phá khủng khiếp của đồng tiền đối với tình nghĩa cha con qua tiểu thuyết bất hủ Lão Gôriô. Thời nay, với cách thể hiện mới mẻ theo quan niệm của riêng mình qua những trang văn đầy cảm xúc, Elena Pucillo Truong khiến bạn đọc ghê sợ ma lực của đồng tiền và sự công phá của nó với những giá trị văn hóa tưởng như bền vững, thiêng liêng nhất. Và khi biết sợ cái xấu, cái ác có nghĩa là con người sẽ tìm về với cái thiện, cái đẹp, có ý thức trân trọng, giữ gìn những gì thuộc giá trị nhân văn và đây cũng là điều mà truyện ngắn của Elena thức nhận nơi người đọc. Và phải chăng đó chính là thành công và là niềm hạnh phúc lớn nhất của người cầm bút trong việc thực hiện thiên chức của mình!?  
    
Cũng đề cập đến vấn đề tình cảm gia đình nhưng trong Dải ruy băng màu tím Elena lại tìm cách cắt nghĩa một phương diện khác trong cách ứng xử của con cái với cha mẹ trong xã hội hiện đại: dù không vì tiền bạc tàn nhẫn chà đạp lên tình cảm gia đình nhưng nếu con cái không ý thức được hết trách nhiệm và niềm hạnh phúc khi được sống bên cha mẹ thì cuối cùng cũng sẽ chuốc lấy những ân hận, đau khổ.
    
Công cuộc mưu sinh, mải mê kiếm tìm tương lai, hạnh phúc trên xứ người khiến nhân vật “tôi” phải trả giá quá đắt. Sau mười năm bôn ba để trở thành “một người đàn ông trưởng thành và rất tự hào về những điều mình thực hiện”, khi trở về quê hương, xứ sở anh ta phải đối diện với tấn bi kịch gia đình hết sức đau lòng: “Chẳng còn ai cả. Ba, mẹ... họ đã chết cách nhau chỉ vài tháng và thi thể được chôn cất trong hai nấm mộ nghèo nàn. Trên đó chỉ có một tấm bia ghi tên, lấm láp bùn đất. Họ đã chết cách đây năm năm, còn tôi, giờ đứng trước hai nấm mồ lạnh lẽo để nhìn hàng chữ, những con số... “ mất ngày...” “ từ trần ngày...”. Họ đã quá già và hai trái tim cằn cỗi đã không còn chịu nổi”. Lương tâm cắn rứt, nỗi ân hận muộn màng của người con khiến trái tim người đọc như bị bóp chặt trước bi kịch này: “Năm năm chồng chất những nỗi đau, hao tốn, nhưng vì nó đời tôi còn có một mục đích. Còn bây giờ... Hình như tôi chẳng còn lý lẽ gì để tin về những điều mình làm. Mỗi buổi sáng thấy bóng mình trong gương mà như thể đang nhìn một con người khác: Hàm râu mọc dài, má hóp, hai hốc mắt trũng sâu và không còn ánh sáng. Tôi không còn là tôi nữa. Tôi không còn lịch sử, một cuộc đời ở phía sau lưng. Tệ hơn nữa là tôi cũng chẳng nhìn thấy vì điều gì để sống trong tương lai. Như thể tôi cũng bị chôn vùi trong hai huyệt mộ ở quê nhà”...
    
Những dằn vặt khổ đau, trống rỗng, mất điểm tựa, mất niềm tin của nhân vật cho chúng ta thấm thía sâu sắc một kinh nghiệm sống: Gia đình, nhất là bố mẹ, cho dù ở đâu trong hoàn cảnh nào cũng luôn luôn là nguồn an ủi, động viên, là nơi tiếp thêm sức mạnh cho mỗi con người. Không còn cha mẹ và gia đình con người trở nên bơ vơ, mất phương hướng. Chính vì vậy, vòng cuốn của công việc mưu sinh có nghiệt ngã đến đâu chúng ta cũng không được xao nhãng, lãng quên sự gắn bó với gia đình, với những người thân của mình. Tiền bạc, sự giàu có không thể thay thế, không thể mua bán/đánh đổi/ lấy lại những gì thuộc về tình cảm quý giá của cuộc đời mỗi con người. Hãy trân trọng mỗi phút giây hiện hữu bên những người thân yêu trong gia đình, nhất là với những đấng sinh thành, bởi vì khi thời gian lấy đi sức khỏe và tuổi tác của cha mẹ thì mãi mãi những đứa con sẽ phải chia xa họ vĩnh viễn, và khi đó sự hối hận và những dòng nước mắt nhớ thương chỉ còn là trò diễn vô nghĩa của cuộc sống mà thôi! Thiết nghĩ, trong xã hội hiện đại ngày nay, khi con người ngày càng bị trói chặt vào vòng vây của công việc và tham vọng cá nhân thì lời nhắc nhở trên như một sự cảnh tỉnh, định hướng cho những lựa chọn mang tính văn hóa của mỗi người.

Tấn bi kịch sống trong cô độc và chết thảm thương của những bà mẹ, ông bố trong truyện ngắn Con chim nhỏ trong lồng, Chút hơi ấm cuối cùng, Dải ruy băng màu tím gợi bạn đọc suy ngẫm về trách nhiệm, tình yêu thương của con cái với cha mẹ lúc tuổi già, rộng hơn nữa là cách đối nhân xử thế bao dung, độ lượng, vị tha giữa con người với con người. Phải chăng, từ những câu chuyện dung dị nhưng đầy ý nghĩa này, Elena muốn chia sẻ với bất cứ ai đang sống trong Cõi Người: Khi nền tảng giá trị văn hóa gia đình bị phá vỡ, đồng thời sẽ kéo theo sự băng hoại của hàng loạt các giá trị văn hóa nhân văn khác. Do vậy, để yêu thương những gì lớn lao hơn, trước hết con người phải biết yêu thương những người thân trong gia đình của chính mình - và chỉ khi nào gia đình-tế bào của xã hội thực sự là chỗ dựa tinh thần, là nguồn sống của mỗi người thì mỗi người  mới có thể cảm nhận được hạnh phúc và những giá trị đích thực của cuộc sống mà thôi!
  
Khác với kiến tạo tiểu thuyết, lao động nghệ thuật để kiến tạo một truyện ngắn buộc nhà văn phải khéo léo xoay trở trên một “mảnh đất” chật hẹp. Chính vì sức khái quát bức tranh đời sống là nguyên tắc của việc kiến tạo truyện ngắn nên điều này đòi hỏi mọi yếu tố cấu thành tác phẩm phải chặt chẽ, cô đọng, phải được chọn lọc tới mức tinh xảo. Đây là công việc khổ sai của kẻ “phu chữ” (từ dùng của Lê Đạt). Đọc truyện ngắn của Elena, có thể nhận thấy nhà văn đã có ý thức “nén” câu chữ một cách tối đa để mang lại hiệu quả cho bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Những truyện Trên đỉnh núi thiêng, Đợi chờ, Cuộc hẹn ở sân ga, Món quà đặc biệt, Vàng trên biển đá đen, Dòng máu nhiễm độc… đã tuân theo quy luật khắc nghiệt này. Với những “mảnh vỡ” tưởng như rất nhỏ bé, truyện của Elena góp phần tạo nên chân dung đa diện của Cõi Người. Cuộc sống bộn bề đan xen nhiều cung bậc: niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và thất vọng, cái ác và cái thiện, cái tốt và cái xấu, cao cả và thấp hèn… tất cả sẽ trở thành chất liệu để nhà văn thể hiện thái độ và suy tư của mình về thân phận, về cuộc đời. Và đây cũng là điều chúng ta cảm nhận được từ vũ trụ văn chương của Elena.

Với giọng kể chậm rãi, cuốn hút, hấp dẫn, nhiều tình tiết được dàn dựng bất ngờ, truyện ngắn Phía sau sự thật phát hiện và khẳng định một vấn đề có tính qui luật mà không phải trong cuộc sống ai cũng nhận ra, thậm chí nhiều khi có người còn bị bề ngoài hào nhoáng đánh lừa. Và qui luật này đã được Elena khái quát như một tất yếu: “Nhiều khi bề ngoài chẳng phải là sự thật”- không nên đánh giá con người chỉ qua bề ngoài, bởi đơn giản nhiều khi nó chỉ là những lớp mặt nạ được sơn phết mà thôi.

Búp bê bằng sáp là câu chuyện có dung lượng rất ngắn nhưng hàm súc và ấn tượng, tác giả tỏ thái độ châm biếm, không chấp nhận một kiểu phụ nữ bị biến thành con “búp bê bằng sáp” đẹp nhưng vô hồn, vô cảm, sống thụ động, thiếu cá tính, sống theo ý muốn của người khác chứ không phải sống cuộc sống của chính mình. Khi nhân vật nhận ra sự vô nghĩa của kiếp người: “Bây giờ thì tôi thực hoàn hảo cho anh! Một con búp bê để trưng bày cho người khác biết về sự giàu sang và vị trí xã hội của anh. Lạnh lùng. Tách biệt. Mang khuôn mặt  vô cảm như sáp  và không hề biểu lộ cảm xúc” thì cũng là lúc “tôi” tự kết thúc một cuộc đời làm “búp bê” cho kẻ khác nhào nặn.  Và phải chăng đây cũng là một tấn bi kịch của con người trong Cõi Người mà Elena đã thể hiện để làm phong phú cho bức tranh nhân thế trong thế giới văn chương của mình mà nếu không có sự quan sát cuộc đời tinh tế của một nhà văn giàu lòng nhân ái thì không dễ gì phát hiện được. Bởi trong xã hội hiện nay có bao người đang tự nguyện để người khác “nặn” mình thành một thứ “búp bê bằng sáp” để được hưởng những  hư danh rẻ tiền mà người đời ban phát. Truyện ngắn Elena vì thế có giá trị như một thứ “thuốc thử” để thanh lọc nhân cách và tâm hồn con người - giúp con người nhận ra chính mình để sống bản lĩnh, tốt đẹp hơn vốn là một phẩm tính mà văn chương đích thực hướng đến.

Với tấm lòng bao dung, nhân hậu, trong truyện ngắn của mình, Elena Trương bao giờ cũng dành cho những nhân vật phụ nữ bất hạnh một con đường mở - con đường để nhân vật tự nhận thức và sám hối. Trong tận cùng bi kịch là sự lựa chọn giữa sống vô nghĩa và chết có nghĩa, tác giả đã để cho nhân vật dám chết để khẳng định nhân phẩm của mình: “Những cánh hoa máu trên môi tôi và màu máu tươi lấm lem loang đầy trên cánh tay... và với nụ cười cuối cùng, tôi buông người xuống nệm, sẵn sàng cho màn diễn cuối. Máu chảy sẽ làm trái tim tôi băng giá”. Người phụ nữ này chọn cái chết để giải thoát mình khỏi “một cuộc hôn nhân được sắp xếp như tất cả những cuộc hôn nhân”, “lấy nhau mà không có tình yêu hay đam mê”- “Chết” ở đây không có nghĩa là kết thúc mà chết là sự giải thoát khỏi cảnh “cá chậu, chim lồng”, chết để vươn tới khát vọng và bầu trời tự do của riêng mình...

Truyện ngắn Trên đỉnh núi thiêng tái hiện những suy nghĩ và cảm xúc phức tạp của con người khi con người vượt qua được thử thách của chính mình. Có lẽ qua câu chuyện chinh phục độ cao “đỉnh núi thiêng” thành công của một cô gái trẻ tuổi, Elena muốn gửi đến chúng ta một thông điệp giản dị, quen thuộc nhưng chưa bao giờ cũ: Chiến thắng chính bản thân mình là chiến thắng khó khăn nhất nhưng cũng là chiến thắng mang lại cảm giác hạnh phúc, tự hào nhất!

Vàng trên biển đá đen là một phát hiện của tác giả về Cõi Người trên “cao nguyên đá”: “cuộc sống thật khó nhọc và đầy bi thảm”. Thiên nhiên trên vùng cao nguyên đá Hà Giang qua ngòi bút của Elena trở nên vừa quen, vừa lạ...vừa khắc nghiệt vừa nên thơ. Đây là một truyện ngắn cho thấy vốn sống phong phú của nhà văn Elena. Tấm lòng rộng mở và những quan sát đời sống tinh tế của chị thấm đượm một tinh thần nhân văn cao quý.

Có một điểm đặc biệt, trong truyện ngắn của Elena hình ảnh người Mẹ luôn trở đi trở lại: Thư viết cho Mẹ, Cuộc hẹn ở sân ga, Đợi chờ, Món quà đặc biệt. Trong mỗi câu chuyện, Mẹ hiện lên với nhiều dáng vẻ, tính cách khác nhau: hiền dịu, cô đơn, chịu thương chịu khó, tinh tế, khéo léo, nhẫn nhịn chịu đựng, hy sinh… chung quy, hình tượng Mẹ trong truyện ngắn Elena là sự kết tinh giá trị văn hóa vĩnh hằng: trong Cõi Người đầy khó khăn, vất vả, nhiều cạm bẫy, Mẹ luôn luôn là chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất cho những đứa con, mẹ là niềm tin, là sức mạnh để con tự tin đi trên con đường nhiều thách thức, hướng tới tương lai. Ngay cả khi đã yên nghỉ ngàn năm, mẹ vẫn là bến đợi vĩnh viễn và duy nhất của mỗi con người…
       
A. Tônxtôi từng nhận định: “Truyện ngắn là một trong những thể tài văn học khó nhất. Về nội dung cũng như về tư tưởng, nó không khác gì tiểu thuyết…chỉ có điều do ngắn nên khó hơn…Truyện ngắn đòi hỏi một công phu lao động lớn”. Ngắn ở truyện ngắn đồng nghĩa với cô đọng, tinh chất - nhìn vào đó có thể thấy cuộc sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Sự thách đố ở đây là năng lực khái quát được bức tranh cuộc sống rộng lớn trong một dung lượng ngôn từ tối giản nhất! Truyện ngắn của Elena Pucillo Truong đã vượt qua những thử thách cam go ấy. Mỗi truyện ngắn trong Vàng trên biển đá đen là một “lát cắt” sinh động về đời sống, sự sáng tạo những kết cấu truyện chặt chẽ, cách trần thuật giản dị, ngắn gọn, tạo dựng tình huống một cách tài hoa đã mang lại sự hấp dẫn riêng có của truyện ngắn Elena Pucillo Truong. Mỗi truyện ngắn là một sự cắt nghĩa, một phát hiện mới, tinh tế về cuộc sống, con người trong xã hội hiện đại phong phú, phức tạp, đầy bất an, thử thách lòng người… 
    
Từ những góc nhìn sáng tạo, nhà văn Elena Pucillo Truong luôn có ý thức làm mới ngòi bút của mình để đem đến cho người đọc những khoảnh khắc thú vị bất ngờ của hiện hữu. Đằng sau mỗi câu chuyện về những điều tưởng chừng rất nhỏ của mỗi thân phận là những thông điệp về Cõi Người muôn màu, muôn vẻ, vừa quen vừa lạ. Thông điệp đó có lúc là lời cảnh báo, có khi là sự ngợi ca,  phê phán, đồng tình, lúc lại là nỗi ưu tư, niềm trắc ẩn, mong ước, tin yêu, hy vọng… và trên hết là tinh thần trân trọng những giá trị nhân văn, nhân bản với khát khao tha thiết hướng về những gì tốt đẹp nhất cho con người và vì con người… Những điều đó chính là cơ sở làm nên giá trị đặc sắc trong truyện ngắn của Elena Pucillo Trương và cũng là sức hút “vẫy gọi” bạn đọc đến với thế giới văn chương của Chị. Truyện ngắn Elena, vì thế là những sẻ chia của những tâm hồn đi tìm sự tri âm muốn vươn đến khát vọng chân thiện mỹ ở xã hội hiện đại đầy  biến động. Hy vọng bạn đọc sẽ tìm thấy những điều tốt đẹp ấy khi đến với tập truyện ngắn Vàng trên biển đá đencủa nữ văn sĩ Elena Pucillo Truong...

      Hà Nội, thu 2017
CAO THỊ HỒNG
Nguồn: NVTPHCM




Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

Nhà thơ Lê Đạt: Bóng chữ đổ lên cuộc đời

Lê Đạt như một gã nông dân thuần phác với nụ cười ha hả của tạng người vô tư… Ông cũng đã tự ví mình như một phu chữ, đẩy chiếc xe nặng nề lên con dốc của văn chương…
Nhà thơ Lê Đạt

Chữ nghĩa với ông là một cuộc vật lộn tựa như anh nông dân xới tung từng vạt đất cằn khô. Ông là nhà thơ đã đi qua biết bao sóng gió của đường chữ và đường đời một cách lặng thầm. Ký ức về ông và những ẩn khuất của thơ ca lần đầu tiên được khơi dậy tại buổi tọa đàm Thơ Lê Đạt: Bóng chữ ngã dài trên đường đời được tổ chức tại Trung tâm văn hóa Pháp (Hà Nội) vào tối 31-1-2011.

Sau bao năm lầm lụi với tai nạn văn chương, năm 1988, nhà thơ Lê Đạt đã được “phục hồi” và liền sau đó tập thơ Bóng chữ của ông được xuất bản năm 1994. Năm 2007, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đó là danh hiệu ghi nhận cống hiến lớn lao của ông đối với nền văn học nước nhà.

Coi sự xuất hiện trở lại của nhà thơ Lê Đạt với tập Bóng chữ xuất bản năm 1994 như một cú dội vào làng văn nghệ khiến nhiều người phải sững sờ, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên gọi đó là một tuyên ngôn, một thách thức cho người làm thơ, đọc thơ thời ấy, có thể cả bây giờ và biết đâu là xa hơn nữa. Những vần thơ như: Tuổi lú lẫn/ Ngược nhầm ga trẻ dại/ Hay ngây ngô không biết lối về già/ Thơ thẩn chữ ngã ba…

Lê Đạt từng nhận mình là một người “đi trước một tí”. Cái một “tí” trong bước đi của ông về ngôn ngữ thơ ca đã để lại cho thơ Việt những luồng gió mới, nó cách xa kiểu chữ theo lối “tiêu dùng” như cách ông vẫn thường nói. Cũng nói về sự cách tân trong ngôn ngữ thơ của Lê Đạt, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy dành cho người thi nhân đã khuất sau đường chữ những lời đánh giá đầy trân trọng: “Ông chở chữ như người ta khai mở một vùng đất mới, phát hiện ra một không gian khác, hoặc thám mã thêm được một tầng vô thức…”. Cũng theo nhà phê bình Đỗ Lai Thúy, điểm cách tân rõ ràng nhất trong thơ của Lê Đạt là việc ông gảy được ra những từ quen thuộc, nghĩa cũ hoặc bị thoái hóa nghĩa để diễn giải một cách thông minh khiến người nghe, người đọc phải tĩnh tâm mà nghĩ lại, nghĩ mới và nghĩ khác.

Nhận mình là một người viết trẻ may mắn được sống cùng thời và được nhà thơ Lê Đạt dìu dắt, nhà thơ Hữu Việt khắc họa chân dung bậc tiền bối của mình trong thi đường bằng một bài thơ với những câu: “Ông bảo có lần đã toan tử/ Nhưng chữ còn nặng nợ… đành thôi/… Ông rộng rãi, khoan dung… lịch sự/ Chỉ nghiêm khắc những khi làm chữ và khi đọc thơ”.

HỒ VIẾT THỊNH
Báo Pháp Luật TPHCM



Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

Nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền: Đời mình là một khúc quân hành

Là một nhà thơ (từng giữ cương vị Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM), song trên thực tế, Diệp Minh Tuyền lại được biết đến nhiều hơn trong tư cách một nhạc sĩ - tác giả của khúc tráng ca bất hủ "Hát mãi khúc quân hành" (được hát nhiều ở các buổi liên hoan hay các dịp lễ trọng), cũng như một số ca khúc rất được khán giả trẻ ưa chuộng: "Cánh hoa lưu ly", "Không dám dâu"...
Nhà thơ Diệp Minh Tuyền (1941 - 1997)

Nếu như đứng riêng rẽ, thơ Diệp Minh Tuyền chưa hẳn đã gây được dấu ấn đặc biệt đối với người đọc, song không hiếm bài lại nổi tiếng dưới hình hài một bài hát do các nhạc sĩ có "hạng" phổ nhạc, như các bài: "Tình Bác sáng đời ta" (nhạc Lưu Hữu Phước), "Màu cờ tôi yêu" (nhạc Phạm Tuyên), "Mùa chim én bay" và "Con đường có lá me bay" (nhạc Hoàng Hiệp)... Có thể khẳng định, Diệp Minh Tuyền là một hiện tượng khá kỳ lạ của làng văn nghệ Việt Nam...

Nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền sinh ngày 18/8/1941 tạo TP Mỹ Tho, trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha anh - cụ Diệp Tư - từng là thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong Mỹ Tho. Mẹ anh là giáo viên. Năm lên 9 tuổi, Diệp Minh Tuyền được mẹ đưa vào sống cùng cha tại chiến khu Đồng Tháp Mười. Tại đây, mỗi tối thứ Bảy, cậu bé lại được cùng các bạn thiếu sinh quân hát vang những bài hát bừng bừng khí thế chiến đấu như "Tiểu đoàn 307", "Chiến sĩ Việt Nam"... Lòng yêu nước, yêu âm nhạc đã hòa quyện trong tâm hồn cậu bé, trở thành niềm vui sống. Sau này, khi Diệp Minh Tuyền được cùng các bạn nhỏ biểu diễn chung với nghệ sĩ Quốc Hương, cậu như tìm thấy thần tượng đích thực của mình. Hình ảnh người nghệ sĩ đội chiếc mũ rộng vành, ôm đàn ghita, say sưa hát những bài tráng ca kháng chiến đã trở thành một trong những hình ảnh ấn tượng nhất trong ký ức một thời của nhà nhạc sĩ tương lai.

Năng khiếu âm nhạc của Diệp Minh Tuyền phát lộ khá sớm. Thời kỳ là học sinh Trường Học sinh miền Nam số 14, mặc dù mới chỉ 13, 14 tuổi, cậu đã sáng tác ca khúc đầu tay "Em bé miền Nam", rồi tiếp đó là "Chiều Hạ Long" được thầy cô và bè bạn rất ngợi khen. Mặc dù đam mê âm nhạc và dự định thi vào Trường Âm nhạc Việt Nam, song nghe theo lời khuyên nhủ của cha, năm 1961, Diệp Minh Tuyền vào học khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, cùng lớp với các sinh viên sau này là những nhà văn, nhà thơ thành danh như Lữ Huy Nguyên, Anh Ngọc, Mã Giang Lân... Cũng tại đây, được sự động viên, khuyến khích của người bạn cũ Ca Lê Hiến (tức nhà thơ Lê Anh Xuân, bấy giờ theo học khoa Sử), Diệp Minh Tuyền bắt đầu làm thơ. Một số bài sau đó đã được tác giả đưa vào tập "Mùa nước nổi" xuất bản năm 1972. Ra trường, Diệp Minh Tuyền được phân công về Viện Văn học, làm việc ở tổ lý luận phê bình với nhiệm vụ chính là theo dõi mảng nghiên cứu phê bình thơ.

Mặc dù một số bài viết đầu tay của Diệp Minh Tuyền ở thể loại này được dư luận ghi nhận là khá chững chạc, song điều ấy cũng không thể ngăn trở anh - chỉ 3 năm sau, đã kiên quyết xin được trở vào Nam chiến đấu. Là con của một cán bộ lão thành cách mạng, bình thường ra, Diệp Minh Tuyền đã có thể trở thành một nhà nghiên cứu với học hàm, học vị, song việc anh dứt áo ra đi đã cho thấy quyết tâm "chia lửa" với đồng bào quê hương của anh.

Người "vô tình" đưa dẫn Diệp Minh Tuyền đi đến quyết định này có lẽ là Lê Anh Xuân. Cũng tương tự như trường hợp của anh, Lê Anh Xuân là con một gia đình trí thức (cụ thân sinh là nhà giáo Ca Văn Thỉnh, người từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong chính phủ kháng chiến). Mặc dù được cử đi nghiên cứu ở nước ngoài, song Lê Anh Xuân đã chối từ để được về quê hương chiến đấu. Và anh đã hy sinh trong đợt hai của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Những bài thơ do Lê Anh Xuân sáng tác như "Nhớ cơn mưa quê hương", "Trở về quê nội", "Dừa ơi" đã thêm hối thúc nỗi nhớ quê trong Diệp Minh Tuyền. Quả đúng như sau này Diệp Minh Tuyền đã viết: "Dù rằng đời ta thích hoa hồng/ Kẻ thù buộc ta ôm cây súng/ Ta yêu sao đồng quê non nước mình" và "Đời mình là một khúc quân hành/ Đời mình là bài ca chiến đấu...".

Với vóc dáng gầy gò, lại mang trong mình căn bệnh đau dạ dày, Diệp Minh Tuyền đã không quản ngại gian khổ, đạn bom, lặn lội vượt Trường Sơn vào chiến khu R, cùng anh em Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam sáng tác những tác phẩm thơ, nhạc động viên cán bộ, chiến sĩ dũng cảm chiến đấu, hy sinh, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những đóng góp của Diệp Minh Tuyền thật thiết thực, kịp thời. Sau này, nhà văn Thanh Quế, "hàng xóm" với anh thời kỳ ở Hà Nội đã kể lại: "Cuối năm 1978, tôi gặp Diệp Minh Tuyền. Sau một chầu nhậu đã ngà ngà say, tôi hỏi: Sao lâu nay anh không viết nhạc? Mắt Diệp Minh Tuyền sáng lên: "Có chứ. Có lẽ vì cậu ở Khu 5, cậu không rõ. Vô chiến trường tớ viết ca khúc "Người giao liên Trường Sơn" và lời bài hát "Tình Bác sáng đời ta" của Lưu Hữu Phước được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng đấy chứ".

"Sao không thấy anh ký tên Diệp Minh?". "Tớ lấy tên là Thanh Tuyền, bậy quá, các cậu không biết hé. Giờ tớ còn đang viết nhiều nhạc...". Diệp Minh Tuyền quả là có duyên âm nhạc. Và dẫu thơ anh có hay, có bềnh bồng thế nào chăng nữa, cũng ít nhiều phải cộng thêm đôi "cánh nhạc" mới thực bay cao. Nhạc sĩ Trương Quang Lục từng cho hay: Năm 1979, hưởng ứng lời kêu gọi của tổ chức UNICEF, Ủy ban Năm Quốc tế thiếu nhi Việt Nam phát động cuộc thi sáng tác bài hát mới cho trẻ em. Cuộc thi gồm hai phần: Phần thi viết lời bài hát và phần thi phổ nhạc các bài thơ ấy. Kết thúc phần một, Ban giám khảo (do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát làm chủ tịch) đã chọn được hai bài thơ: Đó là bài "Trái đất này của chúng em" (đã trở nên rất phổ biến sau khi được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc) của nhà thơ Định Hải và bài "Việt Nam, bầu trời này, mặt đất này" của nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên thì kể, trong một chuyến bay, Diệp Minh Tuyền đã đưa cho ông một bài thơ vết về Đảng. Phạm Tuyên đọc, thấy rất hợp ý mình, đã quyết định phổ nhạc bài thơ. Bình thường, với những bài thơ chặt chẽ về niêm luật, việc phổ thơ sao cho vừa giữ được nguyên văn, mà vẫn thành một bài hát hay, là rất khó. Việc phổ thơ lục bát lại càng khó. Vậy mà Phạm Tuyên đã tài tình thực hiện được điều này. Thậm chí, nghe những câu: "Suốt đời lòng dặn giữ lời/ Đường dài muôn dặm chớ rời tay nhau" được nhấn đi nhấn lại mấy lần, ta thấy giữa tác giả phần lời và tác giả phần nhạc đã có một sự đồng cảm cao độ. Diệp Minh Tuyền là người đa tài. Điều này hẳn không mấy ai là không công nhận. Song điều ngạc nhiên nhất có lẽ chính là khả năng phân thân của anh.

Như ở đầu bài viết đã nói, ngoài sáng tác nhạc, anh còn làm thơ, viết phê bình văn học. Và ngay trong mảng sáng tác nhạc, tác phẩm của anh cũng đáp ứng được tâm lý của nhiều lứa tuổi. Sẽ thật khó hình dung khi người sáng tác nên bài hát nồng nàn, hào sảng, tha thiết, mang đậm chất anh hùng ca như "Hát mãi khúc quân hành", sáng tác nên những lời thơ nghiêm trang và giàu tính khái quát như "Màu cờ tôi yêu" lại là tác giả của những vần thơ hết sức xao xuyến, trữ tình như "Mùa chim én bay" (Khi gió đồng ngát thơm/ Rợp trời chim én liệng/ Cây nảy đầy chồi xanh/ Mây trắng bay yên lành/ Em chợt đến bên anh/ Dịu dàng như cơn gió nhẹ); đậm chất "áo trắng sân trường" như "Con đường có lá me bay" và nhí nhảnh như "Không dám đâu"... Ấy là chưa kể một tình tiết mà không hẳn đã nhiều người biết: Diệp Minh Tuyền còn là tác giả bản dịch phần lời ca khúc "Triệu bông hồng", vốn là bài thơ của nhà thơ Nga Andrei Voznesensky (đã tạ thế hồi tháng 6 vừa rồi).

Ai từng đọc bản dịch này của dịch giả Thái Bá Tân sẽ thấy sự tài hoa, khoáng hoạt của Diệp Minh Tuyền đã tạo nên một bản dịch thành công, xứng với sự trân trọng, hâm mộ của bạn đọc. Xin trích một đoạn của bản dịch do Diệp Minh Tuyền thực  hiện: "Chuyện một tình yêu anh họa sĩ/ Gởi trong tranh vẽ những vui buồn/ Lòng anh thầm yêu nàng ca sĩ/ Cô gái rất yêu bông hoa hồng" và "Tặng một đại dương hoa hồng thắm/ Cho nàng ca sĩ anh yêu thầm/ Và ngôi nhà xinh anh đã bán/ Bằng dòng máu nóng trái tim mình"... Sau ngày miền Nam giải phóng, Diệp Minh Tuyền chuyển về công tác tại Hội Liên hiệp VHNT TP HCM. Tại đây, anh không chỉ được tín nhiệm bầu làm Ủy viên BCH Hội Nhà văn thành phố mà còn được bầu giữ chức Phó tổng thư ký Hội Âm nhạc thành phố, kiêm Tổng biên tập tạp chí Sóng Nhạc.

Nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền qua đời ngày 21/11/1997 tại TP HCM, sau một cơn tai biến mạch máu não. Ra đi ở tuổi 57, anh đã để lại sự tiếc thương trong lòng  bạn bè, người thân và hàng triệu khán giả, độc giả yêu thích thơ và nhạc của anh...

NGUYỄN CHÍ CƯỜNG
Nguồn: VNCA



Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

Vũ Trọng Quang - gương mặt thơ tự huỷ

Với “tự huỷ” thì thấy Vũ Trọng Quang càng khác hơn, huỷ mà không huỷ, khác mà không khác. Khi gương mặt tác giả bị xé thành bốn mảnh sắp ngược xuôi và bị đánh một dấu x màu đỏ, bi kịch lại chồng lên bi kịch…
Nhà thơ Vũ Trọng Quang và tập thơ Hôm qua hôm nay

Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.

Đến nay nội dung và cách trình bày tập thơ vẫn chưa đề mốt. Tác giả là người làm thơ từ những thập niên 70, từ trước 1975 anh đã cùng Linh Phương chủ trương Văn Nghệ Động Đất...

Chúng ta đều biết, sự chuyển động vật lý như biểu hiện cho cái đang tồn tại, cũng như sóng như đại diện cho sự lan truyền, chuyển động. Còn chuyển động là còn sống và ngược lại, bất động trong phạm vi nào đó là đồng nghĩa với chết. Nhưng chuyển động lùi còn tồi tệ hơn cả giẫm chân tại chỗ. Thơ là một dạng sóng để truyền cảm xúc của tác giả đến người đọc. Bài thơ còn lan truyền cảm xúc là bài thơ còn lý do để sống. Người làm thơ ngày nay rất nhiều, nhưng người có đời sống thi ca chỉ đếm trên đầu ngón tay, vì sự nhầm lẫn giữa nhà thơ và thi sĩ, nên chúng ta phải định danh lại, thi sĩ là người làm thơ và có đời sống thi ca trọn vẹn. Chẳng hạn như Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Hữu Loan,... hay như: Arthur Rimbaud, Walt Whitman, Rabindranath Tagore,...

Với thi sĩ thì mọi nhãn mác đều vô nghĩa, thậm chí cả sự vinh danh cũng là trò hề. Bản chất của thi sĩ là cô đơn, đứng bên ngoài và bên trên mọi tập thể hội hè.  Thực tế, đây đó thường xưng tụng nhau là nhà thơ, nhà văn... Về mặt ngôn ngữ, chữ “nhà” là để chỉ không gian vật lý, là cái vỏ bọc bên ngoài. Nhưng với từ thi sĩ, văn sĩ thì chữ “sĩ” có ý nghĩa về đời sống nội tâm, về nhân cách, về tri thức... Vậy xét về mặt ngôn từ thì ở xã hội chúng ta ngày nay, thi sĩ thật sự không có nhiều. Cũng rất mong những nhác mác được gắn kèm chữ sĩ có đời sống và suy nghĩ thật tương xứng với cái tên gọi mà xã hội đã xưng tụng mình như tu sĩ, bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ,...

Vũ Trọng Quang đã bước trên con đường của ngày hôm qua, hôm qua thuộc về quá khứ, hôm nay mọi người cho là hiện tại và hôm sau được gọi là tương lai. Thật ra, mọi thứ đều trở thành hôm qua, hôm qua chính là hôm nay và cũng là hôm sau nếu xã hội đóng khung, xã hội không chuyển động. Tức là xã hội đi giật lùi, một xã hội không có hiện tại và tương lai.

Hôm qua là ký ức, là những gì đọng lại trong những trang giấy, những hình ảnh, những kỷ niệm cũng là cách gieo vần điệu truyền thống, khi mà những câu lục bát dập dìu trên vành nôi, những khung chữ ngũ ngôn đượm tình cảm quen quen của con người.

Ở hôm kia và hôm qua Vũ Trọng Quang là con người đã chết, là sự chết được mã hóa bằng chữ để kéo dài ra cái cảm xúc được tạo dựng trong thế giới thơ. Nhưng hôm qua mãi là hôm qua, không ai có thể thay thế được bản lý lịch quá khứ chính mình.

Và thời khắc hôm nay như ảo ảnh đi về phía hôm qua đã dẫn đưa mọi người đến một vực thẳm hư vô, chúng ta cứ chạy về phía tương tai để được xa quá khứ, tức là xa cõi chết, nhưng tương lai chỉ là một ảo thức biến hiện, tiến trình đuổi theo một cái ảo chỉ là một cái ảo. Cho dù biết thế, nhưng không còn cách nào khác để Vũ Trọng Quang không chùn bước tới trên con đường:

Tôi vẫy tay chào chia tay tôi hôm qua
Trở lại làm gì con đường mòn xưa cũ

Nhưng lực kéo của quá khứ cũng như thói quen đã biến thành quán tính, quán tính lùi của mỗi người trở thành quán tính của cả dân tộc do “nhiều bàn tay trăm tuổi kéo từ phía sau lưng”.

Nhưng niềm hoang mộng của tác giả lại rơi vào ảo mộng khi ngỡ rằng hôm này là một sự thật.

Tôi chào mừng tôi hôm nay
Cắt băng khánh thành con đường thênh thang mới

Thế giới này được tạo sinh từ cơn hưng cảm, chỉ ở trạng thái phân liệt như vậy thì mới có sáng tạo, nếu không chúng ta chỉ tạo ra mọi thứ từ các xác ướp. Bởi vậy, với khái niệm cái mới; nếu cái mới khô cứng, cái mới không truyền được cảm xúc, thì xem như là những xác chết được sơn quét lại. Tất nhiên, thế giới sẽ mở ra nhiều con đường khác, khác nhưng chưa chắc là mới, có điều mọi con đường đều nằm trên mặt đất này.

Trong tập thơ của Vũ Trọng Quang, bất ngờ là ở thì tương lai, là hôm sau. Hình như một gã triết gia nào đó đã nói: hôm sau cũng chỉ là hôm nay. Và theo luận điệu như thế thì hôm sau rồi sẽ thành hôm qua. Cứ cái kiểu chia thời đoạn ra như vậy thì sẽ không nhảy vào khoảng trống được. Đó là bi kịch của chúng ta, bi kịch của loài người. Bản chất của thế giới này là cơn hưng cảm, không phải là thời gian theo điệu suy diễn áp đặt cho con người như vậy, càng không phải là một không gian hứa hẹn xa vời hay một sự níu giữ quá khứ.

Khi đọc đến bài “tới &...” tôi nghĩ về Vũ Trọng Quang khác, cái khác đó là do quá khứ gán vào.

Nói về hình thức của thơ, riêng phần hôm sau chỉ với: ký hiệu liên tưởng, eros, design, đường ray, đánh vần, nhiễm virus, tự hủy,... thì những cái gọi là tân hình thức sẽ không tưởng tượng ra mẫu hình thức nào như vậy. Và chúng ta có quyền công nhận một dạng siêu tân hình thức hay siêu thực tân hình thức hoặc trừu tượng tân hình thức trong thi ca của Vũ Trọng Quang.

Trong bài “đường ray” là hình thức sắp đặt thơ theo hình đường ray, hay trong “nhiễm virus” là một diễn trình về lắp ghép từ vựng đã bị virus máy tính làm rối tung trong một trật tự khác. Trong “eros” là sắp đặt về ý niệm thi ca, nếu đứng sau mũi tên thì thuộc về quá khứ, bay cùng mũi tên là hiện tại và trước mũi tên là tương lai. Trong sáng tạo rất cần những con người đứng trước mũi tên, dù biết rằng mũi tên đó sẽ xuyên qua trái tim mình. Cái kiểu mà Vũ Hoàng Chương đã từng nói: “Lũ chúng ta, đầu thai nhầm thế kỷ”.

Với “tự hủy” thì thấy Vũ Trọng Quang càng khác hơn, hủy mà không hủy, khác mà không khác. Khi gương mặt tác giả bị xé thành bốn mảnh sắp ngược xuôi và bị đánh một dấu x màu đỏ, bi kịch lại chồng lên bi kịch. Nếu biết quên nhưng đừng để bị Alzheimer, thì mỗi chúng ta chỉ còn trạng thái của cảm xúc, có thể hạnh phúc hoặc khổ đau, nhưng ở đó không hiện hữu sự suy diễn. Cứ vậy mà trôi qua như nước trên dòng sông, hôm qua đã chết, hôm nay không dừng lại và hôm sau chưa đến, cứ thế mà đi, mà trôi trên dòng sông của chính mình, rồi sông cũng mất dạng, chỉ còn một vệt sáng của vì sao băng ngang nền trời... đâu cần phải “tự hủy” phải không anh Vũ Trọng Quang. Vì anh đã từng nói:

Tôi kiếm ăn bằng nhiều nghề khác
làm thơ để được nhẹ lòng mình

LÊ HUỲNH LÂM

____________________________

 Nhà thơ Vũ Trọng Quang còn có bút danh Nhị Ka, quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng, hiện sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ trương tập san Văn Chương sau năm 1975.
Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
          
Tác phẩm đã xuất bản:

Nỗi buồn của chúng ta (1973)
Đã hết giờ Lọ Lem (1994)
Hôm qua hôm nay hôm sau (2006)
   
Thực hiện các tuyển thơ:

Thơ tự do (1999)
Thơ hôm nay (2003)
Bông & Giấy (2010)

Quan niệm văn học:

"Thơ phải biến dịch đi tới, bước đi thơ bước đi vận động biện chứng, đứng lại đồng nghĩa với lùi lại. Nhà thơ là kẻ thất bại trên hành trình đi từ khởi điểm này đến khởi điểm khác, kẻ ý thức về đỉnh cao chứ không thể chạm tới đỉnh cao".

Nguồn: NVTPHCM




Nhà văn Kim Lân: Dị ứng với cái giả, cái nhạt

Cũng do sự viết ít đi ấy của nhà văn Kim Lân mà dư luận trong báo giới, văn giới tốn không ít giấy mực luận đàm về việc này. Âu đó cũng là việc thiên hạ cứ luận bàn, mà ai cấm được họ nhưng bàn về một tài năng như nhà văn Kim Lân thì cũng là một sự lạ…

1. Tôi đọc tác phẩm Con chó xấu xí của nhà văn Kim Lân đã lâu nhưng chỉ đến khi ban trù bị thành lập Hội văn nghệ Hà Bắc ra đời mới được gặp ông. Được biết ông là người được nhà văn Nguyên Hồng đưa đi hoạt động văn hóa cứu quốc trước 1945, quê ông ở Phù Lưu - Tân Hồng - Bắc Ninh trù phú có đủ ngành nghề, buôn bán, không chỉ thuần nông và có chế độ khuyến học đặc biệt nên trí thức ở đây thành đạt khá nhiều.
Nhà văn Kim Lân

Ông có em ruột là bà Uyên phụ trách thư viện, nơi chúng tôi thường ra đọc sách báo. Cảm giác gặp nhà văn Kim Lân thấy ông nói chậm rãi, thấu nghĩa thấu tình. Có lần ban trù bị thành lập Hội văn nghệ Hà Bắc tổ chức cuộc gặp mặt thân mật với các nhà văn quê Kinh Bắc sống và công tác tại Hà Nội, tôi được đề nghị đọc bài thơ: “Về Hải Phòng nhớ nhà văn Nguyên Hồng” viết khi một lần về chơi nhà anh bạn ở thành phố Cảng. Sau cuộc tiếp xúc, ông chủ động bắt tay tôi thật chặt và nói: Bài thơ này Kim làm sống lại cái thần của nhà văn. Tính Nguyên Hồng là vậy quyết liệt và có thái độ lắm: đã ghét ghét cay đắng - đã yêu yêu hết lòng - trái tim ông run rẩy - nước mắt ông lưng tròng. Khi đọc tác phẩm của nhà văn Kim Lân ngẫm lại tôi thấy ông cũng có phẩm chất như Nguyên Hồng nghĩa là ông rất dị ứng với cái nhạt cái giả trong văn chương. Ông viết ít đi có lẽ do ông nhận thức rất sâu sắc về nghiệp văn đầy rủi ro và bất trắc. Cái tài đến với nhà văn rất tự nhiên, mất đi cũng rất tự nhiên.

2. Cũng do sự viết ít đi ấy của nhà văn Kim Lân mà dư luận trong báo giới, văn giới tốn không ít giấy mực luận đàm về việc này. Âu đó cũng là việc thiên hạ cứ luận bàn, mà ai cấm được họ nhưng bàn về một tài năng như nhà văn Kim Lân thì cũng là một sự lạ. Cũng sau một buổi hội thảo về văn xuôi do Hội văn nghệ Hà Bắc tổ chức trước đây, tôi có đưa nhận định này ra để hỏi nhà văn. Cũng là để giải đáp thắc mắc không những của nhiều người mà cũng là của riêng tôi. Nhà văn Kim Lân cười mủm mỉm, nét vui ánh lên sau cặp kính lão: Tôi vẫn viết đấy chứ. Chỉ có điều không công bố trên báo chí thôi. Sáng tác thì có ít đi nhưng mình vẫn viết hồi ký Những đêm mất ngủ. Cứ nhớ đến đâu, viết đến đó để ghi lại cái thời mình sống. Theo mình chắc cũng có ích đấy. Và tôi cứ đợi hoài đợi mãi không thấy nhà văn Kim Lân công bố hồi ký này kể cả khi đưa in tuyển tập của ông!?

3. Vốn quê vùng Kinh Bắc văn hiến, nhà văn Kim Lân là người rất mê quan họ. Không hiểu chất quan họ đã “ngấm” vào ông tự khi nào mà bất cứ canh hát quan họ nào mà ông được mời hoặc chủ động đề xuất ông đều rất sốt sắng. Hội Nhà văn Việt Nam có cuộc hội thảo hoặc các nhà văn nước ngoài đến thăm muốn thưởng thức sinh hoạt văn hóa quan họ nhờ đến ông thì ông sẵn lòng “phone” cho Đoàn quan họ Bắc Ninh ra Hà Nội phục vụ ngay không một chút nề hà. Nhà văn Kim Lân thuộc khá nhiều các làn điệu quan họ, tôi đã được nghe ông hát cùng một “liền chị”. Giọng ông khàn đục nhưng ấm áp như vọng về từ một thuở nào đó xa xăm:

Nay nhớ thương tôi phải đi tìm
Mai người nhớ người lại sang chơi
(Buôn bấc buôn dầu)

Ông có thể giải thích cho các bạn bè văn nghệ xa gần khi có dịp tiếp xúc với những lề lối quan họ, cách ăn mặc, ứng xử giao tiếp của người quan họ cặn kẽ tỉ mỉ như một người sành quan họ. Có dịp nào sang Bắc Ninh chơi, nhà văn Kim Lân cũng đến thăm vợ chồng Khánh Hạ - một “liền chị” ông nhận làm con nuôi. Và tất nhiên không thể thiếu một canh hát quan họ với lối hát giao duyên cất lên hồn vía của dân ca đồng bằng Bắc Bộ.

4. Khi chuyển về Hà Nội, thỉnh thoảng tôi có đến thăm nhà văn Kim Lân ở ngõ Hạ Hồi. Nhà ông nép vào một ngõ nhỏ trong cái “bành trướng” của nhà cao ốc xô bồ và nhộn nhạo. Khuôn viên ông ở dù chật mấy cũng đủ bồn hoa, chậu cảnh, bể cá làm sáng lên cái ánh nắng yếu ớt cuối ngày. Chậm rãi sau một hơi thuốc lào thật đã, ông kể tôi nghe những ngày ở ấp Sậu (Bắc Giang) với các nhà văn tài danh một thuở: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Anh Thơ với biết bao ân nghĩa. Ông bảo những năm tháng ấy thấm vào trang viết như có thần nhập, không phải muốn mà có được đâu. Nhà văn Kim Lân tâm sự: Bạn bè khuất núi cả, nghĩ cũng buồn. Mà không khí chung quanh cứ ào ào thế, nó không hợp với tạng của mình. Thích nghĩ ngợi, ngại nơi ồn ã. Cũng là bệnh già đấy thôi. Đỗ Chu thỉnh thoảng có qua lại chỗ mình, hai ông con ngồi đàm đạo sự đời lẽ đời, chán thì đi dạo phố, ngồi quán nhìn thiên hạ đổ ra đường cho vui.

5. Bây giờ ông đã thanh thản về nơi vĩnh hằng. Tôi lại nhớ đến khuôn mặt nửa mờ nửa tỏ trong chiều muộn của ông. Không hiểu những nhân vật ông Cản Ngũ, Nhược Nhự… mà ông dựng lên đã từng thấm đẫm tính cách người xứ Bắc in dấu trong lòng bao thế hệ bạn đọc có phần nào an ủi ông trong nghiệp văn của mình. Riêng tôi nghiệm rằng trong đời Nhà văn Kim Lân cũng từng đã có lúc tận hưởng cái giờ phút yên bình nhất khi hóa thân vào nhân vật do mình tạo ra: “Từ phút ấy, ông mới thấy mình thật sống, mình thật là mình, yên ổn thoải mái. Một nỗi vui phấn chấn tràn vào đầy ngập trong người. Cứ thế ông đứng lặng trong bóng chiều, chìm đắm trong những tiếng xao động từ mặt đất bay lên quấn quít, bao quanh lấy ông, tận hưởng cái giờ phút yên bình nhất của một ngày gác máy bay căng thẳng trên ngọn núi Côi Kê này (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê).     

NGUYỄN THANH KIM
Báo ANTĐ


Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2018

Nhà văn Trần Nhã Thuỵ: Trầm lắng đến bất ngờ

“Những đứa trẻ mắc zịch” được gợi hứng từ niềm đam mê ảo thuật của hai cậu con trai nhà văn, đưa các độc giả nhí đến với không gian tuổi thơ với lắm màu nhiều sắc. Cuốn sách mang đến cho người đọc niềm tin vào sự tự tế trong cuộc đời này...
Nhà văn Trần Nhã Thuỵ

1. Vài năm trở lại đây, các nhà văn sung sức đang thừa thắng xông lên với sáng tác dành cho người lớn bỗng nhiên trẻ ra, trong veo, dọn mình cúi xuống chơi với thiếu nhi. Phần đa xuất phát từ việc muốn ghi lại các câu chuyện dễ thương, mã hóa kí ức thành tác phẩm để lưu giữ giúp con mình. Cao hơn, là thỏa mãn đơn "đặt hàng" của độc giả nhí trong nhà. Hoặc chút trẻ con trong người còn sót lại làm thức tỉnh nhà văn bố, nhà văn mẹ.

Có thể kể đến Nguyễn Vĩnh Nguyên với “Đi tìm hoang da”, Đỗ Bích Thúy với “Em Béo” và “Hội Cầu Vồng”, Phong Điệp với “Nhật ký Sẻ Đồng”, Nguyễn Đình Tú với “Ba nàng lính ngự lâm”, “Chú bé đeo ba lô màu đỏ”, Võ Diệu Thanh với “Siêu nhân Cua”,  Nguyễn Thế Hoàng Linh với tập thơ “Ra vườn nhặt nắng”. Và mới nhất là Trần Nhã Thuỵ với “Những đứa trẻ mắc zịch”.

Vậy là sau truyện ngắn (Lặng lẽ rừng mai, Những bước chậm của thời gian, Chàng trẻ măng ở phố treo đầu, Mùi), truyện dài (Thị trấn có tháp đồng hồ), tiểu thuyết (Sự trở lại của vết xước, Hát), tạp văn (Gối đầu lên mây, Cuộc đời vui quá không buồn được, Triều cường, chân ngắn và rau sạch), chân dung văn nghệ (Chuyện lạ văn nghệ sĩ), rồi tiểu phẩm (Váy ơi là váy), tất cả đều dành cho phụ huynh, đầu sách thứ 13 này Trần Nhã Thụy quyết định hướng đến các em nhỏ.

“Những đứa trẻ mắc zịch” được gợi hứng từ niềm đam mê ảo thuật của hai cậu con trai nhà văn, đưa các độc giả nhí đến với không gian tuổi thơ với lắm màu nhiều sắc. Cuốn sách mang đến cho người đọc niềm tin vào sự tự tế trong cuộc đời này. Nói như nhà phê bình Bùi Việt Thắng, là "Thấy lạc quan hơn, tin tưởng hơn, kỳ vọng hơn vào cái thật, cái tốt, cái đẹp". Hóa ra, Trần Nhã Thụy, ngoài "đọc" tâm lý người lớn vô cùng thành thục, cũng rất cao tay trong việc hiểu "tâm tư nguyện vọng" của con trẻ.

2. Với văn chương, ngay từ đầu, Trần Nhã Thụy đã xác định lối đi không chiều lòng số đông, khi anh hướng đến những truyện không có chuyện, hay là chuyện đấy, nhưng không theo lối thông thường với rõ ràng mở đầu - kết thúc. Sẽ là khó cho ai đó muốn đọc để kể lại cho người khác nghe. Phải tiếp nhận trực tiếp. Tự trải nghiệm với văn bản. Bởi đấy là thứ văn được dụng công trong việc xây dựng không khí truyện và hướng đến cảm - giác - sống. Mà cảm giác, thì phải tự cảm nhận mới chân xác nhất.

Đến giờ, ở góc nhìn hạn hẹp cá nhân, tôi vẫn kiên định rằng “Sự trở lại của vết xước” là cuốn sách "ghi điểm" cao nhất trong hành trình định hình đường văn Trần Nhã Thụy. Cuốn tiểu thuyết không đao to búa lớn, không khía vào những vấn đề nóng bỏng của xã hội thời dễ dậy sóng mỗi ngày với trăm thứ nảy sinh, vỡ ra một cách khó lường. Mà chạm vào miền cảm giác của người đọc.

Hoang mang. Bất an. Lạ lùng. Mê hoặc. Nhân vật chính bất ngờ bị đẩy vào cuộc sống khác, chênh vênh và âu sầu phiền muộn khi người vợ bỗng nhiên mất tích. Dường như, Trần Nhã Thụy đã thành công trong cuộc lội ngược dòng về với hiện sinh của J.P.Sartre và A. Camus.

Sự trở lại của vết xước được Trần Nhã Thụy ấp ủ trong vòng 3 năm, khi đến độ, anh xin nghỉ việc, dành 3 tháng ròng rã để chạm đến dấu chấm câu cuối cùng. Tất nhiên từ dấu chấm ấy đến bản thảo ưng ý còn là khoảng dài nữa. Nói vậy để hiểu, văn chương thật sự luôn là điều không đơn giản, không thể là cuộc chơi như ai đó nói văn hoa bóng bẩy. "Viết, là tự lưu đày mình", như Linda Lê, nhà văn Pháp gốc Việt, từng nói. Còn Trần Nhã Thụy bảo, đấy là hành trình tự sát thương mình.

3. Là lứa học sinh chuyên Văn cuối cùng của trường chuyên thời còn tỉnh Nghĩa Bình (gồm Quảng Ngãi và Bình Định), rời miền Trung, chàng trai Trần Trung Việt (tên khai sinh của Trần Nhã Thụy) trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học, anh vừa viết văn vừa làm báo.

Cuộc vật lộn để trụ lại Sài Gòn luôn khắc nghiệt, nếu không muốn nói là khắc nghiệt nhất. Nơi đây là miền đất hứa, là cơ hội bao la. Nhưng cũng là mênh mông thách thức. Nhiều người trẻ hăm hở dấn bước, sau vài năm phải ngậm ngùi dạt về quê hoặc yên vị ở vùng vành đai nào đó. Trần Nhã Thụy lẳng lặng đi dọc tháng ngày với Sài Gòn. Bám trụ Sài Gòn bằng con chữ. Điềm tĩnh hơn bất cứ người điềm tĩnh nào mà tôi từng thấy.

Nhà văn Di Li từng nhận xét, đại ý: "Trần Nhã Thụy là người ít nói nhất mặt đất. Trong mỗi cuộc gặp, thường anh chỉ nói hai câu. Lúc vào: "Xin chào! Rất vui được gặp bạn". Khi về nói thêm câu nữa: "Tạm biệt! Hẹn gặp lại". Đọc phát phì cười. Kể ra Di Li nói hơi quá, hơi cường điệu. Nhưng tinh thần là đúng. Trần Nhã Thụy vô cùng kiệm lời. Anh thuộc tuýp người làm chứ không nói. Và nhiều khi cách anh làm khiến bạn bè đồng nghiệp không khỏi giật mình.
Bìa sách "Những đứa trẻ mắc dịch" của Trần Nhã Thụy

Ví như, lúc mới ra trường, đang yên ổn ở Văn phòng Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, là "đệ tử" thân cận của nhà văn Lê Văn Thảo - Chủ tịch Hội Nhà văn Thành phố thời ấy - anh chia tay với "hang ổ" văn chương để đi viết báo dạo. Đang ở tờ báo Tuổi Trẻ lớn nhất nước, đùng cái nghe tin anh nghỉ và ra làm báo tự do. Đang viết văn làm báo, đùng cái thấy tên anh ở vị trí biên kịch phim truyền hình.

Đang làm thơ ca hò vè trên facebook cho bạn bè tiêu sầu, đùng cái thấy anh rao bán hạt điều giúp bạn. Đang tĩnh lặng tránh xa hội hè, đùng cái anh vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Thành phố, giữ cương vị trưởng Ban Nhà văn trẻ. Cứ nghĩ anh chẳng bao giờ thi thố văn chương nữa, thì đùng cái, tên Trần Nhã Thụy được xướng lên ở cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam.

4. Viết đến đây, tôi lại nhớ tháng Tư vừa rồi dự trại viết của tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trại viết ở Đà Nẵng nhưng có vào giao lưu với các chiến sĩ thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Ngãi. Trên xe, các nhà văn, nhà thơ tranh thủ thâm nhập thực tế mảnh đất núi Ấn sông Trà bằng trí nhớ. Bắt đầu từ con người.

Lần lượt những cái tên được kể ra, như Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định, Tả quân Lê Văn Duyệt, đến chí sĩ yêu nước Lê Văn Sỹ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Quảng Ngãi phát về võ, chỉ tính riêng huyện Sơn Tịnh, qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, đã có đến 13 vị tướng nổi danh, có thể kể như: Tướng Nguyễn Chánh, Tướng Trần Văn Trà, Tướng Trần Quý Hai… Về văn chương, ít hơn, nhưng người nào ra người ấy, từ Bích Khê vắt qua Tế Hanh, bà Tùng Long, xuống Thanh Thảo, sau nữa là Nguyễn Đông Thức.

Thế hệ văn chương 7X đi ra từ Quảng Ngãi, có lẽ Trần Nhã Thụy và Tiến Đạt là hai cái tên tạo dấu ấn tốt nhất trong lòng người đọc.

So với bạn văn đồng hương, Trần Nhã Thụy gần gũi và nặng nợ với con chữ hơn. Bởi, trong khi Tiến Đạt làm du lịch viết văn thì Trần Nhã Thụy sống bằng nghề viết dạo, như cách anh giới thiệu về mình trên facebook. Dường như bất cứ việc gì, thứ gì liên quan đến chữ, Trần Nhã Thụy cũng đã nhúng bút/ nhúng bàn phím vào rồi. Từ báo đến văn, sang kịch bản phim, kể cả là tiểu phẩm v.v…

Nhưng dù có làm gì, viết gì, thì khi ngồi trước trang văn Trần Nhã Thụy cũng luôn ý thức với chính mình rằng: "Đọc chậm viết ít nhưng phải có sức nặng trên trang viết. Văn chương dù ở trường phái nào, cuối cùng cũng là để sẻ chia, xoa dịu con người. Văn chương không phải để ban phát hay dạy khôn ai cả. Và trong văn chương, anh phải tự tạo ra con đường của mình, phải có lối đi riêng. Có thể lần đầu anh dở ẹc, lần hai lần ba cũng vậy, nhưng đến lần thứ n nào đó anh có thể khá hơn, đó là sự hấp dẫn lẫn thử thách khắc nghiệt của văn chương."

5. Sinh năm 1973. Trần Nhã Thụy đang ở tuổi 43. Cái tuổi dễ làm những người yêu thơ văn nhớ đến bài thơ nổi tiếng Người đàn ông 43 tuổi nói về mình của nhà thơ Trần Vàng Sao. Tôi tự hỏi, liệu giờ nói về mình, Trần Nhã Thụy sẽ nói gì?

Không chắc tất cả, nhưng rất có thể, người đàn ông 43 tuổi Trần Nhã Thụy quê Mộ Đức này sẽ ít nhiều nhắc nhớ về quê mình với quãng tuổi thơ đẹp đẽ đằm mình giữa thiên nhiên. Sẽ nói về những người lao động chân chất bình dị mà anh thích chơi mỗi ngày để từ đấy nhặt ra những chi tiết mà trí tưởng tượng nhà văn có phong phú cỡ nào cũng không nghĩ ra hết được. Sẽ nói về những buổi sớm mai ngồi lặng lẽ bên ly cà phê ở quán quen, một mình hoặc với vài người bạn thân thiết, trước khi lao vào ngày mới với bộn bề công việc dính đến chữ nghĩa.

Trần Nhã Thụy là vậy. Trầm lắng đến bất ngờ. Và bất ngờ nảy mầm từ trong trầm lắng.

VĂN THÀNH LÊ
Nguồn: VNCA




Bài đăng mới nhất

TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI CUỘC THI “MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI”

Sau 8 tháng diễn ra, cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức (với sự tài trợ giải t...

Bài đang đọc nhiều