Không ít trong
số nhà văn này có tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa và tác giả sở hữu nhiều
giải thưởng văn học danh giá, từ Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng ASEAN đến Giải
thưởng Hồ Chí Minh...
Nhà văn Đỗ Chu và nhà văn Nguyễn
Quang Sáng
Giành giải Nhất văn chương ngay sau khi thi trượt
môn Văn
Thời trẻ, nhà
văn Đỗ Chu (tên thật là Chu Bá Bình) vốn đã rất lãng mạn, chính vì thế
ông không thể chịu nổi cách dạy môn Văn bó buộc trong trường học. Năm cuối trường
cấp 3 Hàn Thuyên (tỉnh Bắc Ninh), thi tốt nghiệp đến gần mà Đỗ Chu vẫn không thể
tập trung ôn thi được, kết quả là kỳ thi năm đó (năm 1962) ông bị đánh trượt,
mà lại trượt vì điểm môn Văn
dưới mức trung bình. Trong khi bạn bè cùng trang lứa đỗ vào các trường đại học thì Đỗ Chu ngậm ngùi
ngồi học lại.
Trong lúc “chán đời”, Đỗ Chu ngồi viết những trang văn đầu
tay của đời mình trong một căn gác xép ọp ẹp, một ngọn đèn dầu leo lét và đàn
muỗi đói bay loạn xạ. Viết xong tùy bút “Ao làng”, ông đưa bản thảo chép tay
cho người đang phụ trách tờ báo tường của trường nhưng bị từ chối với lý do: “Ủy
mị, không dùng được!”. Đỗ Chu bèn đánh liều gửi đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội
và đã được đăng ngay.
Sau đó chương trình “Đọc truyện đêm khuya” của Đài Phát
thanh Tiếng nói Việt Nam đã sử dụng lại “Ao làng” của Đỗ Chu để đọc trên sóng
phát thanh. Được đăng tải và phát thanh trên báo, đài lớn như vậy nên Đỗ Chu được cả nước biết tiếng. Sau đó,
Đỗ Chu viết liền một mạch 3 truyện ngắn rồi gửi đến dự cuộc thi truyện ngắn do
Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức.
Mùa hè năm
1963, thi lại tốt nghiệp phổ thông xong, Đỗ Chu lên đường nhập ngũ và được phân
về Cục Chính trị, Quân chủng Phòng không không quân. Cuối năm đó, truyện
ngắn “Hương cỏ mật” giành giải Nhất cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh
lính 6 tháng tuổi quân Đỗ Chu từ đơn vị về Hà Nội nhận giải.
Ít lâu sau, Đỗ Chu được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam,
khi mới 23 tuổi và trở thành “hiện tượng” trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Trong buổi tọa đàm “Truyện ngắn Việt
Nam từ Nguyễn Khải đến Đỗ Chu” do trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối hợp cùng
Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, Đỗ Chu xuất hiện với tư cách nhà văn ngồi nói
chuyện với các bạn bè cũ của mình (đang là sinh viên năm ba) ngày nào
thi đỗ đại học, trong khi ông thì bị rớt phổ thông.
Mười năm trong
quân ngũ, từ năm 1963 đến năm 1974, Đỗ Chu được thỏa sức đi, sống và viết. Những
trang văn thời kỳ này được ông viết trên hòm đạn, bệ pháo, góc đường
băng quân sự, trong những căn hầm, những hang đá dọc Trường Sơn... Suốt đời văn của mình, Đỗ Chu luôn tâm niệm một
điều: “Viết nhiều là quý nhưng phải
hay. Viết nhiều mà không hay thì thà viết ít, thậm chí đừng viết. Dấu hiệu
của tài năng còn là ở chỗ tự biết mình đến lúc nào không hay thì đừng viết nữa”.
So với các nhà văn cùng thời, Đỗ Chu có khối lượng tác phẩm
không đồ sộ, nhưng ông được trao nhiều giải thưởng lớn như: Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2001, Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2002), Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2004 và Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012.
Không phải cứ “văn hay chữ tốt” mới thành nhà văn
Học sinh cấp
2, cấp 3 chúng ta đã được biết đến tên tuổi nhà văn Nguyễn Quang Sáng
qua những tác phẩm “Chiếc lược ngà”, “Quán rượu người câm” cùng những truyện ngắn trong phần đọc thêm như: “Con gà trống”,
“Tiếng chày giã gạo”... Vì thế trong tưởng tượng của nhiều người, nhà văn hẳn phải là người văn hay chữ tốt ngay
từ nhỏ.
Thế nhưng,
Nguyễn Quang Sáng lập tức phủ nhận: “Đâu có, đâu có. Nói cho trung thực, hồi nhỏ
tui học dốt môn Văn lắm. Tui còn nhớ một bài làm văn của mình chỉ được
0,5/20 điểm. Tui dốt văn không phải do thầy dạy dở mà do mình không chú tâm học”.
Sau này, nhiều bạn bè học cũ biết ông Nguyễn Quang Sáng thành nhà văn, có người
đã ngạc nhiên thốt lên: “Thằng Sáng mà cũng viết được văn, kỳ vậy ta!”.
Nguyên do Nguyễn Quang Sáng trở thành nhà văn được ông trả
lời thật đơn giản: “Chính cuộc sống thôi thúc mình cầm bút viết cái gì đó cho đỡ
buồn phiền”. Nhưng ông cũng nói thêm: “Nhà văn khác với người thường là nhờ bản
năng trong người, ví dụ cũng chứng kiến một sự việc như bao người khác nhưng
anh nhà văn lại bị thôi thúc bởi bản năng trong người mà cầm bút”.
Và ông tự chiêm nghiệm rằng học giỏi văn không liên hệ gì
đến danh phận nhà văn sau này, điều quyết định thành nhà văn hay không quan trọng
nhất là trí tưởng tượng và cuối cùng
là hành động viết, vì không viết sao thành tác phẩm được dù nhiều người mơ mộng, tưởng tượng còn hơn cả nhà văn.
Khi còn
sống, nhà văn Nguyễn Quang Sáng từng kể về những “hệ lụy” mà con trai ông (đạo
diễn Nguyễn Quang Dũng) gặp phải khi còn học phổ thông. Các thầy cô dạy văn biết
phụ huynh Nguyễn Quang Sáng là nhà văn có tác phẩm trong sách giáo khoa nên thường mời ông lên than phiền: “Ông là nhà
văn mà con ông học văn dở ẹc!”. Bị than nhiều quá, nhà văn bực mình hỏi
vặn lại: “Cháu nó viết bài theo ý nó hay theo ý cô? Theo ý cô thì giỏi, còn
theo ý nó là dở à?”.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng dạy văn theo lối đóng
khung, chia một bài văn thành nhiều thang điểm… là trói buộc trí tưởng tượng của học trò. Vì rằng học
các môn khoa học tự nhiên, nhất là môn Toán người ta cũng cần trí tưởng tượng vậy thì một bài văn, thơ hay cũng phải
để người học hiểu các nghĩa khác nhau của nó.
Gia tài văn học của Nguyễn Quang Sáng gồm hơn 30 đầu
sách, ông đã nhận nhiều giải thưởng
văn học nghệ thuật, trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh.
PHONG LAN
Báo An ninh Thủ đô
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét