Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

Văn hoá ứng xử

Với người Việt Nam, khái niệm “người có văn hóa” được sử dụng như một tính từ dùng để chỉ những hành vi, cử chỉ của cá nhân phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục và văn minh khoa học. Người có văn hóa không hoàn toàn đồng nghĩa với học hàm học vị. Do đó, có những người học hàm học vị cao vẫn bị đánh giá là thiếu văn hóa, và có người học chưa hết cấp tiểu học lại được coi là có văn hóa.

Ứng xử có văn hóa hay không của một con người, hay tổ chức được bộc lộ ra trước một hoàn cảnh, tình huống cư xử. Vì vậy, từ xưa, cha ông ta đã có câu tục ngữ: “học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Ai cũng tưởng rằng, đã là con người thì sinh ra đã biết khóc đòi bú, đòi ăn, hà cớ gì phải học? Nhưng với người Việt, ăn phải biết trông nồi, ngồi phải biết trông hướng.

Những người là con cháu, ít tuổi phải ngồi đầu nồi mà xới cơm cho bậc cha chú, người cao tuổi và khi ăn phải biết nồi còn nhiều hay ít mà chìa bát xin ăn thêm hay nhường nhịn nhau.

Việc nói cũng cần học. Tục ngữ có câu “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Từ những việc đơn giản “học ăn, học nói”, con người còn phải “học gói, học mở”, nghĩa là học để biết cách sắp xếp công việc, cách làm cái gì trước, cái gì sau, rồi khéo léo trong công việc, cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hàng ngày.

Trong khi văn hóa ứng xử được đem ra ứng dụng nhiều trong đời sống xã hội thì tại các trường học lại ít khi đào tạo kỹ năng này. Người ta học văn hóa ứng xử do tự thân là nhiều. Và thường là do môi trường sống của bản thân tác động đến, như tục ngữ nói “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Mới cách đây vài ngày, những hành vi cử chỉ về ứng xử văn hóa khi chào đón đội tuyển bóng đá U23 đã gây ồn ào dư luận.

Ban đầu việc Công ty Cổ phần hàng không Vietjet tài trợ chuyến bay VJ7269  cho đội tuyển U23 Việt Nam từ Thường Châu (Trung Quốc) về Nội Bài (Việt Nam) nhận được sự cổ vũ vui mừng của dư luận.

Khi máy bay hạ cánh, các cổ động viên càng vui mừng khi thấy trên thân máy bay dòng chữ “Tôi yêu Tổ quốc tôi”.

Nhưng rồi, tất cả đã bị sốc khi trên mạng xã hội ngập tràn những hình ảnh và clip phản cảm về những  cô gái “chân dài” mặc bikini uốn éo đi lại và chụp ảnh với các cầu thủ và huấn luyện viên.

Các cô gái “chân dài” có thể “lý luận” là họ được thuê, nhưng nếu họ biết giữ hình ảnh mình chắc sẽ không nhận “hợp đồng” này.  Bộ VHTTDL đề nghị Cục Hàng không xử lý.

Và chiều ngày 30/1, Cục Hàng không đã ra quyết định xử phạt Công ty cổ phần hàng không Vietjet 40 triệu đồng do không xin phép khi biểu diễn trên chuyên cơ chở đội bóng U23 Việt Nam từ Thường Châu về Hà Nội.

Còn với cá nhân tiếp viên trưởng chuyến bay VJ7269 bị phạt 4 triệu đồng vì đã có hành vi vi phạm không báo cáo kịp thời cho cơ trưởng chuyến bay theo Nghị định số 147/2013/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng.

Giá như, Vietjet thay vì màn múa phản cảm bằng việc tài trợ tiếp cho đội tuyển U23 một bữa ăn thịnh soạn, sau đó tạo điều kiện để các cầu thủ nghỉ ngơi một chút cho lại sức thì có phải tốt hơn không để đến nỗi, sau đó mấy tiếng đồng hồ các chàng trai trẻ ra sân vận động giao lưu khi chưa kịp ăn uống. Nghe lời bộc bạch của cầu thủ Xuân Trường tại sân Mỹ Đình sau đó mà thấy thương.

Rồi khi đội tuyển U23 diễu hành từ sân bay Nội Bài về trung tâm thủ đô Hà Nội lại xuất hiện hành vi khiến dư luận xôn xao.

Đó là việc ông Nguyễn Lân Trung xuất hiện ở vị trí hàng đầu trên tầng 2 chiếc xe buýt dẫn đầu diễu hành.

Có những thời điểm ông Trung còn đứng lên trước, che cả vị trí của HLV trưởng Park Hang-seo để hò reo, vẫy tay với người hâm mộ đang chào đón những người đã lập lên kỳ tích tự hào. Dư luận cho rằng ông Trung “tranh công”.

Thực tế, ai cũng biết, ông Trung không phải là cầu thủ bóng đá, không ghi bàn, nên không có việc tranh công gì ở đây. Và hành vi của ông Trung còn khiến báo chí đặt câu hỏi xem ông có được phân công lên tầng 2 cổ vũ hay không?

Ông Nguyễn Xuân Gụ - Phó Chủ tịch phụ trách truyền thông của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF), khẳng định không phân công, trong khi đó tại buổi họp báo tại trụ sở VFF chiều ngày 29/1, ông Lê Hoài Anh, Tổng Thư ký VFF, lại cho rằng ông Trung làm đúng chức trách nhiệm vụ của mình.

Tất nhiên, hành vi này của ông Trung không vi phạm quy định pháp lý hay quy chế gì. Chỉ tiếc là ông “sơ ý” đứng không trông hướng khiến dư luận thấy chướng mà thôi.

Cũng cần phải bàn đến việc tổ chức đón rước đội tuyển U23 thiếu khoa học và không tính hết được các phương án. Chỉ một đoạn đường hơn 20km từ sân bay Nội Bài về Ba Đình mà đi hết 5 giờ đồng hồ (từ 13h30 đến 18h30).

Việc vỡ kế hoạch này kéo theo bao phiền toái như truyền hình trực tiếp kéo dài gần 10 tiếng đồng hồ (cho đến chương trình gala tại sân vận động Mỹ Đình).

Và chưa bao giờ một sự kiện trong nước mà Thủ tướng phải đợi đến 5 tiếng đồng hồ. Khó có thể trách đám đông cổ động viên đã ùa ra đường khi các phương án giao thông không được lên kế hoạch chu đáo.

Cuối cùng là việc chụp ảnh lưu niệm trước trụ sở Văn phòng Chính phủ. Lẽ ra, một số vị quan chức nên nhường vị trí cho các cầu thủ đứng hàng trên, cạnh Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam còn mình đứng trên bậc sau hàng hai thì đẹp biết bao. Vì đây là cuộc tiếp đón của Thủ tướng đối với đội tuyển bóng đá và HLV Park Hang-seo.

Để kết thúc bài viết, xin mượn mấy câu thơ của cụ Nguyễn Công Trứ trong bài “Trong trần mấy mặt làng chơi” để nói văn hóa ứng xử như một cuộc chơi trong đời sống rất nghệ thuật: “Thôi thôi chơi cũng là chơi vậy; Biết mùi chơi chưa dễ mấy người”.   

TỪ KHÔI
Báo Đại Đoàn Kết 1-2018


Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

Văn học và văn hoá truyền thống

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
GS.TS Huỳnh Như Phương

Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên, nghệ thuật pha trà, thư pháp…), là những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…). Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.
      
Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá cuả một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định.
      
Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu văn hoá. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu trong xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị dân so với người sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên, và với người nông dân bị giới hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên khác.
      
Tuy nhiên, cách nghiên cứu có phần “thực dụng” này cũng có nguy cơ làm cho nghiên cứu văn hoá nuốt chửng nghiên cứu văn học và thủ tiêu chính đối tượng toàn vẹn của văn học.
      
Nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá trị văn hoá dân tộc, nhân bản và khai phóng. Dù là phản ứng trước những làn sóng văn hoá tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng tác tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn hoá dân tộc.

      
Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…, cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
        
Cách tiếp cận văn hoá học như vậy thực chất là đặt văn học trong không gian văn hoá với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ở những người nghệ sĩ lớn, đó không phải là sự “ăn tươi nuốt sống” mà là sự tiêu hoá và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của tấm thảm dệt ngôn từ. Sự thẩm thấu này truyền đi cả theo hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ nguồn  văn hoá truyền thống rì rầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của tác phẩm mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách tự giác. Mặt khác, những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức, đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp hay gián tiếp, bằng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Đối với những tài năng bậc thầy, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách nhuần nhuyễn đến mức khó mà tách bạch rõ ràng.
      
Văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự đan xen văn hoá có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngả ba đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.
        
Ở xa, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá hẹp: văn hoá tộc người, văn hoá vùng. Những vùng văn hoá giao nhau sẽ tạo ra những nét chung trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học. Công trình khảo cứu Hồ sơ Lục châu học của Nguyễn Văn Trung là một nỗ lực đáng trân trọng nhằm khảo sát, phân tích và đi đến khái quát về đặc điểm và sự phát triển của văn học Nam bộ trong bối cảnh văn hoá-lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập quán, lề thói sinh hoạt ở vùng đất mới là cái nôi văn hoá hình thành nên tính cách con người và tính cách văn chương ở đây, thể hiện qua tâm lý, hành động và ngôn ngữ.
      
Trong một phối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự nối tiếp và gần gũi giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX với Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt… ở nửa đầu thế kỷ đó. Và mặc dù không thiếu những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận mệnh trong thế kỷ đầy biến động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác của họ cũng có một khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến… ở miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư… ở miền Bắc.
        
Nằm trong cấu trúc văn hoá, đạo đức là những quy luật tinh thần hướng con người vươn đến điều Thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực và quy phạm trong đời sống xã hội. Nói đến quan hệ giữa văn học và đạo đức chính là nói đến quan hệ giữa cái đẹp và cái Thiện. Mỹ học truyền thống phương Đông cũng như phương Tây luôn nhấn mạnh sự thống nhất của hai phạm trù này và khẳng định văn học góp phần củng cố bầu không khí đạo đức của xã hội, trong đó tình người, lương tâm, bổn phận, sự trung thực, lòng nhân ái, lẽ công bằng… được đề cao. Ngược lại, khi xã hội vững chãi về phong hoá, đạo đức, thì văn học sẽ tiếp nhận nguồn động lực để nói lên sự thật về cuộc đời và về lòng người.
      
I. Kant quan niệm ý thức đạo đức là quy luật của bổn phận. Có bổn phận được thôi thúc do sức mạnh và áp lực của dư luận từ bên ngoài; có bổn phận được thôi thúc do ý thức của chính lương tâm từ bên trong. Từ đó, Kant phân biệt hai loại hành động là hành động thích nghi theo bổn phận và hành động vì bổn phận. Ông kêu gọi: “Hãy hành động sao cho nhân tính trong bản thân mình cũng như nơi người khác luôn luôn được xem là cứu cánh và không bao giờ bị sử dụng như là phương tiện” (Fondements de la métaphysique des moeurs, Delagrave, Paris, 1971, p. 150).
      
Văn học gắn liền với ý thức đạo đức theo nghĩa thứ hai. Đó là tiếng nói của bổn phận và lương tâm ngay cả khi không có áp lực của xã hội và dư luận. Văn học khơi dậy sự ăn năn, cắn rứt của lương tâm con người về những tội lỗi mà có thể không một toà án nào xử phạt được. Đó là sự sám hối, xưng tội của con người với chính bản thân mình: con người tự kết án, tự biện hộ, tự phán quyết và tự hoà giải với lương tâm mình. Có thể nói, ở nơi mà luật pháp, dư luận xã hội không can thiệp được, thì văn học có khả năng khơi dậy và tỉnh thức lương tri của con người.
      
Đạo đức là một thực thể luôn vận động và thay đổi theo sự tiến hoá của xã hội chứ không mang một khuôn khổ bất di bất dịch. Nói đúng hơn, trong đạo đức có phần căn cốt, bất biến; lại có phần biến đổi, thích nghi theo từng thời đại. Chẳng hạn, ở thời đại nào con người chân chính cũng coi trọng nghĩa vụ và danh dự; nhưng quan niệm về nghĩa vụ và danh dự thời nay không thể giống với quan niệm thời Racine, Corneille… Cũng vậy, ở thời đại nào tình mẫu tử cũng thiêng liêng, sâu nặng; nhưng mỗi thời lại có cách đối xử với người phụ nữ khác nhau, và do vậy nhìn nhận vấn đề nữ quyền một cách khác nhau. Văn học tiên phong đấu tranh cho nữ quyền chính là góp phần làm chuyển biến đạo đức theo hướng tiến bộ.
      
Trong xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi có thể dẫn đến một loại văn học suy đồi nào đó; nhưng văn học chân chính luôn có ý thức phản kháng lại sự suy đồi. Vì vậy, văn học là lương tri của xã hội ngay cả trong tình huống bất lợi nhất. Văn học kiên trì bảo vệ những giá trị đạo đức vĩnh cửu hay đấu tranh với những lề thói đạo đức cổ hủ không phải bằng những lời rao giảng thống thiết mà bằng sự trải nghiệm của nhà văn và nhân vật của mình. Tiếp xúc với sự trải nghiệm đó, bạn đọc sẽ tự rút ra cho mình những bài học về cách ứng xử đạo đức mà họ tin là phù hợp với phẩm giá con người. Nhà văn cần tin rằng con người tự mang phẩm hạnh bên trong mình. Văn học không dạy dỗ, mà là nâng đỡ, “hộ sản” (maieutique), như phương pháp của Socrate, cho những phẩm hạnh đó có điều kiện thuận lợi để xuất hiện.
       
Có liên quan đến cả văn học và đạo đức, giáo dục là hoạt động nền tảng của văn hoá, đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao dân trí, hướng đến mục tiêu đào tạo những con người có nhân cách và năng lực nghề nghiệp. Một nền giáo dục toàn diện bao gồm giáo dục tri thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Văn học có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ, là con đường đưa con người vươn đến điều Thiện và cái đẹp; đồng thời cũng góp phần vào hai lĩnh vực giáo dục kia, khi nó giúp con người nhận chân sự thật và vững vàng về mặt tâm lý.
        
Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, không có một nền giáo dục chân chính nào xem nhẹ văn học. Văn học giữ một vị trí then chốt trong hệ thống các môn khoa học nhân văn ở nhà trường tiểu học, trung học và đại học. Trên những chặng đường đời người ta có thể quên đi những định lý toán học, định luật vật lý hay công thức hoá học; nhưng người ta sẽ nhớ mãi những bài văn hay được học từ thời thơ ấu: nhớ ông đại tướng Carnot về trường cũ thăm thầy, nhớ cậu bé đeo cặp sách ngang qua vườn Luxembourg một sáng mùa thu, nhớ người lãng du khắp năm châu bốn biển nhưng vẫn thấy quê hương mình đẹp nhất… Văn học trong nhà trường là sợi dây kết nối những tâm hồn như đã được thể hiện chân thành trong truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam.
        
Một xã hội khủng hoảng về lý tưởng sẽ dẫn đến khủng hoảng về giáo dục; mà một nền giáo dục khủng hoảng thường biểu hiện rõ nhất ở việc khủng hoảng dạy và học môn văn. Vì vậy, những nhà giáo dục có trách nhiệm luôn quan tâm đến việc cải tiến nội dung, chương trình, sách giáo khoa văn học và cả phương pháp dạy văn. Dạy văn ở đại học là dạy nghề, là truyền đạt một khoa học, cần sự phân tích nghiêm ngặt và lý giải hệ thống; còn dạy văn ở nhà trường phổ thông là dạy người, là truyền đạt tình yêu cái đẹp, là giáo dục tình cảm. Dạy Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở trung học không phải là làm một bài thuyết giảng vô hồn về những điển cố, mà phải làm cho học sinh cảm được thần thái của một bài văn đọc giữa khói hương để hiệp thông với linh hồn những người đã hy sinh vì nghĩa cả. Đó là một nghệ thuật.
       
Môn văn học cần được đầu tư nhiều hơn nữa trong hệ thống giáo dục quốc dân: xây dựng một đội ngũ viết sách giáo khoa có tài năng và tâm huyết, tuyển chọn được những áng văn ưu tú để trao truyền cho thế hệ trẻ, đào tạo một đội ngũ thầy cô giáo có năng lực và yêu nghề. Chỉ có như vậy thì tình yêu dành cho văn học, và qua đó tình yêu cái đẹp mới được nuôi dưỡng và không ngừng nâng cao.
       
Văn học là một kho tàng bao la, ngày mỗi ngày sinh sôi nẩy nở. Văn học trong nhà trường là phần tinh hoa được chắt lọc, gồm những giá trị đã được thời gian thử thách, phù hợp với thiên chức của giáo dục. Đó là vốn liếng căn bản để con người làm hành trang tiếp tục khám phá, cảm nhận, chinh phục kiến thức và vẻ đẹp của văn học ở ngoài nhà trường. Giáo dục cần chuẩn bị cho tuổi trẻ một tâm thế nhạy bén, tự tin và tự chủ khi tiếp xúc với những sản phẩm của thị trường văn học phức tạp ở bên ngoài, nhiều khi vàng thau lẫn lộn, để nhận ra đâu là giá trị đích thực.
       
Sức hấp dẫn của một bộ sách giáo khoa văn học bậc phổ thông trước hết là ở những tác phẩm được chọn lựa để giảng dạy, sau đó mới là ở phần phân tích, bình giảng những tác phẩm đó. Cấu tạo chương trình với những tác phẩm kém chất lượng thì dù soạn giả có là các chuyên gia bậc thầy, việc thu hút học sinh yêu thích môn văn cũng là vô phương. Cho nên thiết kế được một chương trình đào tạo môn văn hợp lý, có tính sư phạm là đã bảo đảm thành công một nửa cho việc biên soạn sách giáo khoa, đặt tiền đề quan trọng cho cải tiến việc giảng dạy môn học này. Rất tiếc, hiện nay, người ta tập trung công sức và tiền của vào việc tổ chức biên soạn sách giáo khoa văn học mà không đầu tư thích đáng cho việc biên soạn một chương trình phù hợp và nhất quán.
       
Theo thiển ý của chúng tôi, trong chương trình đó, chiếm tỉ lệ áp đảo phải là những tác phẩm có giá trị bền vững, lâu dài, trong đó những tác phẩm cổ điển phải giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Chương trình, cách dạy học, cách ra đề thi hiện nay, tuy không quên lãng văn học cổ điển, nhưng vẫn ưu tiên cho văn học hiện đại, với không ít tác phẩm chưa kinh qua thử thách của thời gian, vô hình trung góp phần làm xóa nhoà ý thức về văn hoá truyền thống nơi học sinh. Chúng tôi cũng không tán thành việc đưa các bài văn “nhật dụng” vào chương trình ngữ văn, như ta thấy trong sách giáo khoa được biên soạn gần đây. Đành rằng đọc những bài văn như vậy cũng là cần thiết, nhưng trong khi chương trình luôn bị thầy và trò phản ánh là quá tải, thì người làm chương trình phải cân nhắc để chọn lựa giữa văn học và cận văn học, giữa văn học tinh hoa và văn học thực dụng. Đưa vào chương trình một bài báo chưa ráo mực của một quan chức nào đó, điều đó cho thấy tính chất xu thời của của người soạn sách, sẽ dẫn đến hậu quả tai hại là cắt đứt sợi dây truyền thông giữa các thế hệ cùng thụ hưởng bộ sách giáo khoa đó.
       
Đặc điểm và chất lượng của nền giáo dục có thể được phản ánh qua đặc điểm và tài năng của những nhà văn thụ hưởng nền giáo dục ấy. Một nền giáo dục què quặt, phiến diện tất nhiên không thể sản sinh ra những nhà văn ưu tú. Giáo dục cũng phát triển thuận chiều với văn học khi nó góp phần hình thành một công chúng có thị hiếu thẩm mỹ cao, không loá mắt choáng ngợp trước những sản phẩm văn học tầm thường, hào nhoáng. Công chúng đó có khả năng tiếp nhận những tác phẩm văn học giàu hàm lượng trí tuệ, sẵn sàng ủng hộ, biểu dương hay ít ra, biết chờ đợi và lắng nghe những tìm tòi thể nghiệm trong văn học.
       
Văn học và giáo dục, như vậy, cùng đồng hành trong việc xây dựng một nền văn hoá đậm đà tinh thần dân tộc và sâu sắc ý nghĩa nhân văn. Sự quan tâm đến lĩnh vực này sẽ làm lợi cho lĩnh vực kia và có tác dụng tích cực đến nhiệm vụ xây dựng văn hoá và con người.
      
Cùng chia sẻ những giá trị đạo đức chung, nhưng mỗi dân tộc, mỗi tộc người, thậm chí mỗi vùng đất có thể có những phong tục, tập quán riêng. Tôn trọng bản sắc văn hoá cũng là tôn trọng những phong tục, tập quán đó và không lấy phong tục nơi này làm chuẩn mực đánh giá phong tục nơi khác.
      
Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục với những tác gia am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc làng và Lều chõng, Trần Tiêu với Con trâu Chồng con, Mạnh Phú Tư với Làm lẽ và Sống nhờ, Bùi Hiển với Nằm vạ, Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô… Tất nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu tả phong tục đó, nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về phong tục, các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ một thái độ trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại mới vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc.
       
Thực tiễn tiếp nhận văn học cho thấy giữa phong tục và văn học từng diễn ra những bất hoà, xung đột. Chẳng hạn, những tác phẩm có yếu tố tính dục thường là nguyên cớ của mối bất hoà này. Ngay từ những năm 30 thế kỷ trước, chính quyền thực dân  Pháp đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy Hà hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu với lý do “vi phạm thuần phong mỹ tục”. Vào đầu những năm 70 chính quyền Sài Gòn cũng từng gây khó khăn cho việc xuất bản Ngàn cánh hạc của Y. Kawabata với lý do tương tự. Gần đây hơn, việc dịch và ấn hành Chiếc chìa khóa của J. Tanizaki, Tình yêu thời thổ tả của G. Marquez, Tình ơi là tình cuả E. Jelinek đã gây ra những cơn “sốc” văn hóa trong dư luận. Bản dịch tiếng Việt tiểu thuyết Một nỗi đau riêng của Oe Kenzaburo không ra mắt bạn đọc với nội dung trọn vẹn mà phải cắt mất một chương, là một thí dụ khác.
       
Trong cấu trúc văn hoá, phong tục là yếu tố thường xuyên biến đổi. Phong tục quy định ứng xử của con người nhưng chính con người lại làm ra phong tục. Thời gian sẽ thử thách và bảo tồn những phong tục tốt đẹp như những giá trị văn hoá, đồng thời điều chỉnh, sửa sang những phong tục tỏ ra chỉ thích hợp với một không gian văn hóa và thời gian lịch sử nhất định. Trong lĩnh vực này, công chúng nhìn vào thái độ của văn học để tham khảo cho một cách ứng xử phù hợp.
       
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của văn hoá truyền thống. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là một người thụ hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn hoá, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là một phần của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu cầu tinh thần ngày càng phát triển, và nói theo Jacques Rigaud, nó hướng đến việc tìm kiếm “một ngôn ngữ chung giữ cho chúng ta không quay trở lại thời kỳ man rợ”.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG 
Tạp chí Nhà văn 


Văn chương tinh hoa và văn chương đại chúng

Đây là đề tài thú vị nhưng phức tạp. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, tôi có mấy suy nghĩ như sau.

Trong điều kiện bình thường của đất nước, văn chương phân hóa thành hai bộ phận chủ yếu: Tinh hoa và đại chúng, hướng đến các đối tượng công chúng khác nhau.

Văn chương đại chúng hướng đến cái hay về nội dung và nghệ thuật vừa tầm đón nhận của đa số người đọc. Nhiều người tán thưởng là dấu hiệu thành công của tác phẩm. Tính chất truyền thống, dễ tiếp nhận là đặc điểm của văn chương đại chúng. Sẽ sai lầm khi coi thường văn chương đại chúng. Hướng tới con người bình thường, bộ phận văn chương này rất giàu dưỡng chất của đời sống, của cái hàng ngày, đặc biệt đậm nét trữ tình và giá trị nhân bản. Có thể nghĩ rộng ra để hiểu sức sống lâu bền của nhạc bolero trong đông đảo người yêu nhạc suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Nhưng loài người có đặc điểm là khao khát vô biên cái mới. Trong quá trình phát triển, văn học, nghệ thuật không chỉ bỏ qua cái kém, cái dở, cái lạc hậu... mà còn bỏ qua cả cái đẹp, cái hay đã quen thuộc. Văn chương đại chúng không đặt ra nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu đổi mới đó. Làm tiền đề cho tầm đón nhận của văn chương đại chúng là kinh nghiệm thẩm mỹ từ văn chương truyền thống của dân tộc. Bảo thủ về tầm đón nhận là đặc điểm của bộ phận công chúng văn chương này. Mà công chúng nào thì văn chương ấy!.
Nhà thơ Phạm Quốc Ca

Trong vô số những người viết văn, làm thơ có những tài năng không sáng tác một cách hồn nhiên, mình là thế nào thì cứ thế mà viết. Họ hiểu sâu sắc mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Họ có ý thức bằng tác phẩm của mình góp phần thúc đẩy văn chương tiến về phía trước. Với tài năng và nhiệt huyết họ trở thành bộ phận tinh hoa của nền văn học. Hơn ở đâu hết ta thấy ở đây một quy luật của văn học, nghệ thuật: "Quý hồ tinh bất quý hồ đa".

Văn chương tinh hoa đặt nhiệm vụ khám phá con người và cuộc sống ở bề sâu, bề xa, chiếu những tia Rơnghen nhận thức, cảm thấu vào cõi bí ẩn, phức tạp của đời sống, đặc biệt là đời sống tinh thần của con người. Bộ phận văn chương này không chỉ thể hiện ý thức, tình cảm mà còn khám phá cõi vô thức, tiềm thức, tâm linh...Nó ráo riết cách tân về thi pháp, hướng tới bạn đọc hàng đầu, vượt lên trước tầm đón nhận của công chúng như người đua xe gắng vượt lên trước dù chỉ nửa vành bánh xe.

Sự cách tân về văn học, nghệ thuật nào mà không phải trả giá? Trên quá trình tìm tòi, sáng tạo đó, nhiều tác phẩm chưa thuần thục, chỉ dừng ở mức thể nghiệm, chưa thành một sinh thể nghệ thuật thật sự. Giới thiệu về Phong trào Thơ mới 1932-1945 trong hợp tuyển"Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh - Hoài Chân nói rõ họ đã phải đọc hàng vạn bài thơ dở mới lựa chọn được 146 bài đưa vào cuốn sách. Hàng chục bài trong số đó cũng đã không chịu đựng được thử thách của thời gian.

Sự đoạn tuyệt với thi pháp văn chương truyền thống, sử dụng các thủ pháp nghệ thuật được gợi ý từ trường phái tượng trưng, trường phái siêu thực và các trường phái hiện đại, hậu hiện đại khác...của phương Tây dễ dẫn đến tình trạng phi giao tiếp giữa văn bản và độc giả. Nhiều người là những tài năng văn học, nghệ thuật bị nhìn nhận như những kẻ điên, nhưng đó là "những người điên dũng cảm". Không có họ không có sự tiến bộ trong văn học nghệ thuật. Vai trò tiên phong của họ cần được ghi nhận. Việc tiếp nhận thơ Hàn Mặc Tử là một bài học. Đương thời Xuân Diệu không chịu được thơ Hàn. Trong bài "Thơ của người" in trên báo "Ngày nay" số ra ngày 7-8-1938, thi sĩ trẻ đã viết: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười... chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: "Tôi điên đây, tôi điên đây!". Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên hãy cứ im lặng như thường mà im lặng sống". Ngược lại, Chế Lan Viên khẳng định:" Tôi xin hứa hẹn với các người rằng mai sau những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử"("Người mới", số 5, 23-11-1940). Thời gian đã chứng minh lời khẳng định của Chế Lan Viên.

Giữa văn chương đại chúng và văn chương tinh hoa có mối quan hệ biện chứng. Có nền mới có đỉnh. Có nhiều tác giả, tác phẩm đỉnh cao thì cái nền cũng sẽ được nâng lên.Thật thú vị khi nghĩ về thơ của Thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều:

- Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường!

và thơ ca dân gian:

- Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng!

Không dễ khẳng định ai đã ảnh hưởng ai nhưng là hiện tượng tốt đẹp. Tôi nghiêng về khả năng người nghệ sĩ dân gian đã chịu ảnh hưởng Nguyễn Du thiên tài để sáng tạo nên cặp câu lục bát mang vẻ đẹp vượt thoát vẻ đẹp mộc mạc, chất phác của ca dao nói chung.

Trước Cách mạng tháng Tám 1945 Xuân Diệu được xem là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới: " Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất / Không có chi bè bạn nổi cùng ta!"(Hy Mã Lạp Sơn). Đương thời, trong điều kiện dân ta đa số mù chữ, ông là một trong những hiện tượng tinh hoa, đặc tuyển. Dần dần trình độ tiếp nhận của công chúng văn chương được nâng lên, thơ ông không còn là cái gì quá xa vời mà nằm trong vùng tiếp nhận của đại chúng.

Trước đây, trong hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến, văn chương được định hướng đại chúng hoá, hướng về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công, nông, binh. Đây là một quan điểm có lý của nó trong hoàn cảnh đặc biệt lúc bấy giờ. Chế Lan Viên đã lý giải:

"Cái tinh tế cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến
Vì ta tính đến hàng chục triệu con người và vạn khoảnh non sông".

Cũng trong hoàn cảnh đó, khi nói về định hướng đại chúng hóa ta chỉ thấy cái hay, cái được và thực tế đã có nhiều bài thơ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã "đi cùng năm tháng với nhân dân ta". Điều đáng nói là trong hoàn cảnh đặc biệt (chiến tranh và cách mạng) quá kéo dài ta đã không thấy mặt trái của quan điểm đại chúng hoá. Văn chương theo ý hướng tiếp tục quá trình hiện đại hoá mở ra từ đầu thế kỷ XX đã không được chú ý đến, thậm chí bị kỳ thị. Lênin đã viết (đại ý): Vấn đề không phải là bắt các văn nghệ sĩ phải hạ thấp tính sáng tạo xuống cho vừa tầm tiếp nhận của quần chúng mà là phát triển sự nghiệp giáo dục để nâng tầm đón nhận của quần chúng lên. Hồ Chí Minh cũng đã từng huấn thị các nhà văn (đại ý): Trước đây trong kháng chiến quần chúng còn mù chữ, ít chữ ta phải viết ngắn gọn, dễ hiểu. Bây giờ trình độ học vấn chung đã được nâng lên, ta phải viết sao cho hay, cho thú vị!.

Vì nhiều lý do, trong đó có quan điểm đại chúng hoá, ở ta văn chương tinh hoa và văn chương đại chúng không xa cách nhau bao nhiêu về chất lượng. Thật ra thì ranh giới giữa hai kiểu loại văn chương này cũng không phải là rạch ròi, đứt đoạn. Ngay từ xưa đã thế. Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tinh hoa số một của thơ Việt Nam. Trong đó có những điều Đại thi hào đã tiếp thu, chuyển hoá từ văn hoá dân gian. Tác phẩm này có những phần người bình dân cảm nhận được với tất cả sự yêu quý, trân trọng và có những phần dành cho các bậc thức giả, cho "bạn đọc hàng đầu"- nói theo ngôn ngữ lý luận hôm nay- đồng điệu. Tác phẩm của thiên tài luôn là một cấu trúc nghệ thuật có tính chất mời gọi khám phá.
Trong cùng một người viết, các tác phẩm của họ cũng không đồng nhất về tính chất đại chúng hay tinh hoa.Việc họ hướng về loại người đọc nào sẽ quy định không chỉ thông điệp tư tưởng nghệ thuật mà còn cả việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật, cấu trúc tác phẩm, xử lý không gian, thời gian nghệ thuật...và suy cho cùng là liên quan đến chất lượng của tác phẩm.

Thực tế thì văn chương có cái hay dễ tiếp nhận và có cái hay tinh tế, phức tạp, mang tính hiện đại đòi hỏi người đọc phải động não - điều mà ngôn ngữ lý luận gọi là "đồng sáng tạo". Chế Lan Viên đã có nhận định đáng lưu ý:“Xưa Aragon, Eluard là các ông tổ siêu thực. Giờ đây các vị là nguyên soái của hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng là một thứ hiện thực đã đi qua siêu thực còn mang trên mình những đốm lân tinh rực rỡ của nó. Hấp dẫn nhờ vậy”(Chế Lan Viên giữa chúng ta, Nxb Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2000, tr.31). Không đơn giản là mới, nhiều xu hướng văn chương hiện đại còn sử dụng cái kì lạ, huyền ảo, đi vào vô thức, tiềm thức, sử dụng lối viết tự động tâm linh; không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật... cực kỳ phức tạp, không dễ nắm bắt.

Từ thực tế sáng tác và tiếp nhận có thể thấy rằng dị ứng với thơ hiện đại thế giới là điều không đúng. Để cách tân thì vai trò của truyền thống văn chương dân tộc không thể bỏ qua nhưng việc tiếp nhận các giá trị thơ thế giới là rất quan trọng. Ở đây tính dân tộc phải được hiểu thật sự khoa học trong thế vận động. Không thể nhân danh sự trong sáng được hiểu một cách giản đơn là gắn với truyền thống để kìm hãm sự phát triển của văn chương. Bởi vì:“Có trong sáng động và trong sáng tĩnh, có trong sáng giàu và trong sáng nghèo… Biết làm sao được khi dòng sông ngôn ngữ tiếp xúc với cái mới, cái lạ thì nó hãy tạm thời bị vẩn đục. Vấn đề là nó phải nhanh chóng chủ động giải quyết sự đục ấy để không những lặp lại sự trong sáng cũ mà tiến đến một sự trong sáng mới cao hơn, giàu hơn vì bấy giờ đã thêm yếu tố mới nhập vào”(Chế Lan Viên, Sđd, tr.339).

Từ Đổi mới đến nay đã có một số nhà văn, nhà thơ có khát vọng cách tân, tự xếp mình vào xu hướng thơ văn hiện đại, hậu hiện đại. Tác phẩm của họ làm cho bạn đọc phân hoá một cách sâu sắc. Người khen thì khen hết lời, người chê thì như đào đất đổ đi, rất khó nghe.

Vấn đề phức tạp thêm ở chỗ có một số người muốn được nhìn nhận là tiên phong, ra sức đưa văn chương vào cái sừng trâu tắc tị, hoặc đổi mới bằng cách đưa lên trang sách tất cả những gì bẩn thỉu, tục tằn nhất nhằm gây sự chú ý của bạn đọc. Đổi mới văn chương đâu dễ thế?. Văn chương đích thực là kết tinh của tài năng, huyết lệ, mồ hôi, thậm chí là tuổi thọ của người viết.

Văn học nghệ thuật là lĩnh vực của tài năng, của sáng tạo cái đẹp. Không chỉ những cái tầm thường, mực thước sẽ không sống được với thời gian mà cả những cách tân giả tạo với những tuyên ngôn, những quảng cáo lập loè màu sắc cũng sẽ bị đời sống văn chương bỏ qua.Tôi quan niệm văn chương dù đổi mới thế nào thì vẫn phải được sáng tạo theo quy luật của cái đẹp và dựa trên nền tảng nhân văn. Và cuối cùng thì tác phẩm phải trả lời được vấn đề là: Có hay, có thú vị không?.

Tôi tin ở trái tim, khối óc của công chúng hôm nay khi tiếp nhận văn chương. Những tác phẩm có giá trị thật sự bao giờ cũng là một sinh thể nghệ thuật có sức lay động, xúc động người đọc.Thơ giả, văn giả như hoa nhựa không có hương vị gì, chỉ lòe người bằng vẻ sặc sỡ.

Trên cơ sở cái nền chung khá rộng của văn chương Việt Nam hôm nay đang nổi lên nhu cầu xuất hiện những nhà văn, nhà thơ thật sự tài năng, không chỉ đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người đầu thế kỷ XXI, mà còn làm chứng chỉ đại diện cho văn chương Việt Nam đương đại trước thế giới.

Đà Lạt, tháng 5.2018
  PHẠM QUỐC CA

CÂU CHUYỆN KHÁC:



Thứ Tư, 27 tháng 6, 2018

Đội ngũ viết văn trẻ TPHCM: tiềm năng và triển vọng

"Tôi vẫn luôn kỳ vọng vào tiềm năng sáng tạo của đội ngũ những nhà văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và những người viết văn trẻ cả nước nói chung khi mà trong tâm thức và tâm cảm của họ vẫn luôn chất chứa những nỗi đau về phận người và những trăn trở, ưu lo trước cái ác, cái xấu, cái bất công… vẫn còn hiện hữu trong cõi nhân gian này".
1. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ Phan Hoàng, Ủy viên Ban Chấp hành - Trưởng ban Nhà văn trẻ Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh trong một lần trả lời phỏng vấn báo Văn Nghệ Trẻ số 9 (747) ra ngày 27.2.2011 đã khẳng định một cách tự tin rằng đã có “một sinh khí mới mẻ đang “thổi” vào Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh mà tôi tin nó ngày càng lớn mạnh”. Bởi theo anh “Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều cây bút trẻ có tài có tâm, nhiệt huyết sáng tạo và đã có nhiều tác phẩm đóng góp xứng đáng vào nền văn học thành phố, nếu không muốn nói họ đang là lực lượng quan trọng làm thay đổi diện mạo văn học thành phố những năm gần đây”.  
     
Những điều nhà thơ Phan Hoàng khẳng định hoàn toàn có cơ sở và có lẽ còn khá khiêm tốn khi anh cho rằng văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới góp phần làm thay đổi đời sống văn học thành phố. Song theo tôi, những nhà văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh không những góp phần làm thay đổi đời sống văn học thành phố mà hơn thế, họ còn góp phần làm thay đổi diện mạo văn học đương đại của dân tộc. Bởi tác phẩm của họ không chỉ được lưu hành trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh mà còn có mặt ở nhiều vùng, miền trong và ngoài nước, được bạn đọc đón nhận và dư luận quan tâm. Vì thế, tầm ảnh hưởng của họ không chỉ giới hạn trong phạm vi vùng, miền mà còn lan toả khắp đất nước và thậm chí cả ở nước ngoài.

2. Khi nghiên cứu một nền văn học hay một vùng văn học không thể không nói đến đội ngũ nhà văn, những người đã và đang làm nên diện mạo đời sống của vùng văn học đó. Thế nên, nhìn vào đời sống văn học Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, ta thấy trong tiến trình phát triển  có vai trò rất lớn của nhiều thế hệ nhà văn, trong đó có các nhà văn trẻ. Và mỗi thời kỳ đều có những tác giả gây ấn tượng với người đọc cả nước. Đây chính là tiền đề, là bệ phóng để các nhà văn trẻ Thành phố bay cao, bay xa trong chân trời lao động sáng tạo. Thế hệ nhà văn trẻ hôm nay không thể không có sự “tiếp lửa” từ các thế hệ nhà văn lớp trước. Sự “tiếp lửa” ấy là một giá trị góp phần tạo nên tiềm năng và triển vọng trong hành trình sáng tạo của lực lượng viết văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh mà thực tiễn sáng tác của họ trong những năm qua đã khẳng định điều đó.

Quả thật, nhìn vào đời sống văn học của đất nước trong những năm gần đây, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước sức sáng tạo dồi dào, đa dạng và phong phú của những người viết trẻ trong nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Họ tung tẩy và tạo những điểm nhấn ở nhiều thể loại văn học, nhiều sự kiện văn học với những tìm tòi, những thử nghiệm, những sáng tạo, những cách tân, có cả thành công lẫn thất bại… Chính điều này đã làm cho diện mạo văn học dân tộc thêm khởi sắc và trong một chừng mực nào đó đã tạo nên sức sống cho nền văn học, tuy chưa thật mạnh mẽ như mong muốn của người đọc nhưng không phải là không có những thành tựu đáng trân trọng.

Trong lĩnh vực thơ ca, có thể thấy sự tiếp nối sáng tạo của nhiều thế hệ nhà thơ trẻ như Phan Hoàng với Tượng tình, Hộp đen báo bão và gần đây gây chú ý khi công bố từng phần Bước gió truyền kỳ; Ly Hoàng Ly với Cỏ trắng, Lô lô, Quà; Nguyễn Hữu Hồng Minh với Giọng nói mơ hồ, Chất trụ và những bài thơ khácVỉa từ; Lê Thiếu Nhơn với Bài ca phía mặt trời, Dốc gió, Phố tình riêng, Trong bóng người xưa, Bản tường trình giấc mơ đi vắng; Phan Trung Thành với Vọng sông quê, Mang, Đồng hồ một kim, Những ngày vắng em; Ngô Liêm Khoan với Trở mình trong máng xối; Trần Lê Sơn Ý với Cơn ngạt thở tình cờ; Trương Gia Hoà với Sóng sánh mẹ và anh; Ngô Thị Hạnh với Vang vọng, Hòn bi vỡ, Rơi ngược, Nắng từ những ngón chân; Song Phạm với Tôi uống bầu trời trong ly nước nhỏ; Đinh Thu Hiền với tập thơ đầu tay Hiền là Hiền; Đồng Chuông Tử với Thèm ăn, Mùi thơm của im lặng… Và nhiều nhà thơ trẻ khác như: Bùi Thanh Tuấn, Thục Linh, Trần Đình Thọ, Lê Văn Tiến, Nguyễn Phong Việt, Lê Thuỳ Vân, Trần Hoàng Nhân, Ngọc Anh, Đỗ Thanh Vân, Tuệ Nguyên, Song May, Nguyễn Ngọc Minh Châu, Chiêu Anh Nguyễn, Hoa Nip, Lê Văn Lâm, Trần Mai Hường, Phùng Hiệu, Trần Huy Minh Phương, Hoàng Thanh Tâm… Riêng nhóm Ngựa Trời gồm các nhà thơ nữ 8x Sài Gòn: Nguyệt Phạm, Thanh Xuân, Khương Hà, Phương Lan, Lynh Bacardi với tập thơ in chung Dự báo phi thời tiết khi vừa ra đời đã khuấy động dư luận. Họ cũng lần lượt tìm cách khẳng định mình bằng những tập thơ riêng: Nguyệt Phạm với Mắt giấy, Khương Hà với Kim tuyến đỏ

Những thế hệ nhà thơ trẻ này thực sự là lực lượng nòng cốt của thơ ca Thành phố và của cả nước trong những năm gần đây. Nhiều người trong số họ đã đoạt được những giải thưởng về thơ như: Phan Hoàng với giải thưởng thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho Bước gió truyền kỳ; Nguyễn Hữu Hồng Minh với giải thơ Bút mới Báo Tuổi trẻ những năm đầu tiên, giải thưởng thơ Tạp chí Sông Hương, hay tập thơGiọng nói mơ hồ của anh đã vào chung khảo giải thưởng thơ năm 2000 của Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam; Trần Lê Sơn Ý với tập thơ Cơn ngạt thở tình cờ đã nhận được Tặng thưởng của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 và cũng là một trong hai tập thơ của tác giả nữ đầu tiên được giải thưởng Lá Trầu; Lê Thiếu Nhơn với hai lần được Tặng thưởng về thơ của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh với tập thơ Trong bóng người xưa năm 2007 và Bản tường trình giấc mơ đi vắngnăm 2010; Đồng Chuông Tử với tập thơMùi thơm của im lặng được vào chung khảo giải thơ Bách Việt… Chính điều này đã cho thấy tiềm năng và triển vọng của lực lượng các nhà thơ trẻ ở Thành phố Hồ Chí Minh trên con đường dấn thân vào một thể loại văn học khá huyền diệu nhưng cũng vô cùng đỏng đảnh - đó là thể loại thơ. Bởi nói như Charles Henri Ford “Thơ cũng huyền diệu như trời”.

Cùng với thơ, ở thể loại văn xuôi cũng cho thấy tiềm năng và triển vọng khá đa dạng của lực lượng viết văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Văn xuôi của những người viết trẻ Thành phố trong những năm qua cũng góp phần rất lớn trong đời sống văn học Thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Nhiều cây bút trẻ trước đây đã từng có những tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong sự tiếp nhận của bạn đọc cả nước như: Lại Văn Long, Phan Triều Hải, Phan Hoàng, Phan Thị Vàng Anh, Khánh Chi, Trầm Hương… Tuy đến nay không còn trẻ nhưng họ là cầu nối quan trọng cho thế hệ 5x, 6x với 7x, 8x, 9x sau này của văn học Thành phố. Cũng thuộc thế hệ 6x gắn liền với văn học trẻ phải kể đến Nguyễn Thu Trân, từ khi rời Đồng Nai về Thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh những tác phẩm viết cho thiếu nhi, chị còn khẳng định mình với tập truyện Bốn người nhẹ như chiếc lá và tiểu thuyết Hồ thiêng. Tiếp đến là các nhà văn thế hệ 7x, 8x, 9x, đội ngũ rất hùng hậu như: Tiến Đạt với các tập truyện ngắn Có con chim lạ trong thành phố, Tội lỗi tự nhiên, tiểu thuyếtThể xác lưu lạc; Trần Nhã Thuỵ với các tập truyện ngắn, tạp văn: Lặng lẽ rừng mai, Những bước chậm của thời gian, Chàng trẻ măng ở thành phố treo đầuGối đầu trên mây, Cuộc đời vui quá không buồn được, truyện dàiThị trấn có tháp đồng hồ, và tiểu thuyếtSự trở lại của vết xước; Nguyễn Thị Châu Giang với các tập truyện ngắn: Đám cưới sao, Biển trên núi, Đèn lồng trên cao, Chợ tình, Cuộc chơi, Trở về tình yêu, truyện dài: Không ngủ, Mùa hè thơ ấu, Tóc ngắn, Đêm dịu dàng...; Nguyễn Thu Phương với nhiều tập truyện ngắn như Cây lẻ bạn, Ngồi tựa mạn thuyền, Luân sinh, Phiêu linh trắng…; Nguyễn Ngọc Thuần với các tập truyện Vừa nhắm vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm mộng, Giăng giăng tơ nhện, Nhện ảo, Trên đồi cao chăn bầy Thiên sứ, Cha và con và…tàu bay;Nguyễn Danh Lam với các tiểu thuyết Bến vô thường, Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc, tập truyện ngắn Mưa tháng mười một…; Phan Hồn Nhiên với các truyện dài Công ty, Mắt bão, Chiếc vòng đồng đen, các tập truyện ngắn: Dốc mưa, Đôi giày vuông, Cánh trái…; Vũ Đình Giang với tiểu thuyết Song song và các tập truyện ngắn: Trên đất lạ, Mười sáu mét vuông, Vũ trụ câm, Bờ xám, Kẻ lạ nhìn tôi từ phía sau; Dương Thụy với các tiểu thuyết Oxford thương yêu, Cáo già- gái già và tiểu thuyết diễm tình, Nhắm mắt thấy Paris cùng nhiều tập truyện ngắn, bút ký; Trương Anh Quốc với tiểu thuyết Biển vàhai tập truyện ngắn: Sóng biển rì rào, Lũ đầu mùa. Và hàng loạt cây bút trẻ khác lần lượt xuất hiện và tìm cách khẳng định mình trên văn đàn như: Hải Miên, Trần Văn Thưởng, Đoàn Tú Anh, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phương Trinh, Đoàn Phương Huyền, Nguyễn Thiên Ngân, Huỳnh Mẫn Chi, La Thị Ánh Hường, Võ Thu Hương, Bích Khoa, Thiên Di, Hà Thanh Phúc, Hoàng My, Nguyễn Thị Hải… trong đó có nhiều cây bút hiện đang là sinh viên như: Yến Linh, Trần Minh Hợp, Lưu Quang Minh, Ngô Thuý Nga, Nguyễn Thị Vân, Lê Miên Ca, Nguyễn Đặng Tường Vy…

Có thể nói, ở lĩnh vực văn xuôi các nhà văn trẻ đã xông pha và khám phá ở nhiều thể loại từ truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, truyện dài, truyện cho thiếu nhi… Và ở thể loại nào họ cũng có những tìm tòi, thể nghiệm, những khát khao đổi mới bút pháp mà đặc biệt là sự vượt lên chính mình trong quá trình sáng tạo để làm mới mình, phủ định mình, từ đó hình thành cho mình một phong cách riêng. Điều mà các thế hệ nhà văn trước kia chưa mấy chú trọng, bởi hạn chế từ điểm nhìn của một thời kỳ văn học mang tâm lý đám đông và ý thức đồng phục. Chính vì vậy, trong số họ đã có những nhà văn khá thành danh và nhận được những giải thưởng có uy tín trong đời sống văn học như: Nguyễn Thu Trân với giải nhì Văn học thiếu nhi do Hội Nhà văn Đan Mạch phối hợp Hội nhà văn Hà Nội và NXB Kim Đồng tổ chức. Tiến Đạt với Thể xác lưu lạc là tác phẩm đầu tiên về tiểu thuyết được hội đồng thẩm định giải thưởng Bách Việt chọn vào chung khảo. Đây là một trong những tác phẩm tạo dư luận tốt trong bạn đọc về cách nhìn mới, cách nghĩ mới và sự đổi mới bút pháp của chính tác giả. Trần Nhã Thụy với tiểu thuyết Sự trở lại của vết xước tái bản đến lần thứ 3, (một hiện tượng khá hot trong thời buổi văn hóa đọc đang có chiều hướng xuống cấp), đã lọt vào vòng chung khảo giải thưởng văn chương thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam và đây cũng là tác phẩm tạo dư luận tốt trong đời sống văn học, được trao Tặng thưởng của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008. Nguyễn Ngọc Thuần là người rất có duyên với các giải thưởng văn chương. Kể từ khi tác phẩmGiăng giăng tơ nhện của anhđoạt giải thưởng Văn họctuổi 20 lần thứ 2, anh liên tục nhận được các giải thưởng như: giải Nhất cuộc thi Văn học thiếu nhi lần thứ 3 với tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (NXB Trẻ 2000), giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi năm 2003 với tác phẩm Nhện ảo (NXB Kim Đồng 2003), giải B (không có giải A) sáng tác văn học dành cho tuổi trẻ do NXB Thanh niên và Báo Văn nghệ chủ trương với tác phẩmTrên đồi cao chăn bầy Thiên sứ. Nguyễn Danh Lam với giải thưởng Báo Văn nghệ cho truyện ngắn Đất.Phan Hồn Nhiên với Tặng thưởng của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 với tác phẩm Cánh trái; Trương Anh Quốc với tiểu thuyếtBiển đã đoạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 lần thứ 4 năm 2010 do Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Tuổi trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phối hợp tổ chức. Trước đó, trong cuộc thi Văn học tuổi 20 lần thứ 3 năm 2005, Anh cũng đoạt giải nhì với tập truyện ngắn Sóng biển rì rào… Và nhiều tác giả trẻ đoạt giải thưởng văn xuôi đáng chú ý khác như: Phương Trinh, Trần Thị Hồng Hạnh, Hải Miên, Bích Khoa, Võ Thu Hương, Nguyễn Thiên Ngân… Bên cạnh đó còn có những nhà văn đang còn là sinh viên ở các trường đại học nhưng đã kịp cho ra đời những tác phẩm đầu tay và cũng tạo được ấn tượng nơi người đọc. Điều đó đã minh chứng cho thấy tiềm năng và triển vọng của đội ngũ nhà văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh là một thực thể đã được khẳng định từ trong thực tiễn lao động và niềm đam mê sáng tạo văn chương của họ.
Vâng, văn chương không chỉ là niềm đam mê mà là nghiệp chướng mà khi đã dấn thân vào thì rất khó vượt thoát. Thế nên việc các nhà văn trẻ Thành phố đã không ngừng sáng tạo để cho ra đời nhiều tác phẩm văn học trong thời gian qua cũng như sẽ tiếp tục xuất bản những tác phẩm mới trong thời gian đến không chỉ cho thấy tiềm năng và triển vọng của họ mà đó còn là hành trình giải nghiệp của kiếp văn chương. Bởi sự chọn lựa văn chương là sự chọn lựa của định mệnh. Song không phải vì văn chương là một định mệnh rồi ngồi đó trông chờ định mệnh sẽ mang đến cho ta tác phẩm mà định mệnh của văn chương là thứ định mệnh của sáng tạo, của lao động. Đó là định mệnh của sự dấn thân, tận hiến, tự đốt cháy mình để làm nên tác phẩm. Vì vậy, nói đến tiềm năng và triển vọng của đội ngũ những nhà văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cũng là nói đến tiềm năng lao động sáng tạo của mỗi nhà văn trong quá trình sáng tác. Bởi nếu nhà văn không tự khổ luyện mình trong lao động của nghề văn mà sớm thoả mãn khi có được những thành công bước đầu thì không thể tạo nên tiềm năng và không có tiềm năng thì cũng chẳng bao giờ có triển vọng.

3. Việc các nhà văn trẻ khẳng định chỗ đứng của mình trong làng văn những năm qua cũng đã cho thấy rõ tiềm năng và triển vọng của lực lượng viết văn trẻ thành phố là một chân trời đầy ánh sáng. Và chính họ chứ không ai khác phải là người chiếm lĩnh tương lai của văn đàn. Sự tồn sinh của văn học dân tộc chỉ có thể trở thành hiện thực bằng chính sự lao động sáng tạo của các nhà văn trẻ. Và đây là điều đã được minh chứng trong tiến trình lịch sử văn học. Nhìn vào văn học dân tộc những năm 1930 - 1945 của thế kỷ XX, ta thấy đã có biết bao nhà văn thành danh khi họ còn rất trẻ. Và chính họ đã làm thay đổi diện mạo của văn học nước nhà trong thời kỳ hiện đại mà ảnh hưởng của nó không phải đã phai mờ trong nền văn học dân tộc. Đó là Chế Lan Viên với tập thơ Điêu tàn ra đời khi ông 17 tuổi đã làm nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam ngỡ ngàng cho đó là một niềm “kinh dị”. Còn Bích Khê sáng tácTinh huyết năm ông 23 tuổi, được Hàn Mặc Tử đánh giá là một đóa hoa “thần dị” và cũng chính Hàn thi sĩ tôn vinh Bích Khê là “thi sĩ của thần linh”. Riêng Tế Hanh, năm 18 tuổi (1939) đã nhận được giải thưởng Tự lực Văn đoàn với tập thơ Nghẹn ngào và được Nhất Linh khẳng định là “có rất nhiều hứa hẹn để trở thành một thi sĩ có tài”. Xuân Diệu viết Thơ thơ từ năm 21 tuổi mà theo Hoài Thanh: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạc chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.”. Rồi Vũ Hoàng Chương xuất bản thơ Say năm 24 tuổi, Huy Cận viết Lửa Thiêngnăm 21 tuổi… Rõ ràng, chính các nhà thơ này bằng lao động sáng tạo của mình đã viết nên một trang sử mới cho lịch sử văn học dân tộc. Và từ những cột mốc ban đầu này đã tạo tiền đề để họ tiếp tục sáng tạo nhằm khẳng định tiềm năng, triển vọng và vai trò của thế hệ của mình trong lịch sử văn học dân tộc. Còn các bạn! Tuy đang có một đội ngũ nhà văn hùng hậu, một điều kiện sáng tạo vô cùng thuận lợi của thời đại mới nhưng các bạn cũng gặp phải sự cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường. Các bạn phải làm gì để khẳng định tiềm năng và triển vọng của mình như những gì các bạn đã khẳng định trong thời gian vừa qua trên văn đàn!? Câu trả lời xin nhường lại cho chính các bạn những nhà văn trẻ của Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố của năng động và sáng tạo và cũng là Thành phố của tiềm năng và triển vọng.

Riêng phần mình, tôi vẫn luôn kỳ vọng vào tiềm năng sáng tạo của đội ngũ những nhà văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và những người viết văn trẻ cả nước nói chung khi mà trong tâm thức và tâm cảm của họ vẫn luôn chất chứa những nỗi đau về phận người và những trăn trở, ưu lo trước cái ác, cái xấu, cái bất công… vẫn còn hiện hữu trong cõi nhân gian này. Và tôi xin mượn lời của nhà văn Trần Nhã Thuỵ khi trả lời phỏng vấn trên trang web Evan để khép lại bài viết có phần tản mạn của mình khi anh thành thực nhận rằng: “Nói thật, hàng ngày trong lòng tôi đều có sự đối diện thường trực với những nỗi đau về những điều chưa tốt, những điều bất công mà mình nhìn thấy, mình cảm nhận được trong cuộc sống. Và tôi thích được cọ xát thực sự với nỗi đau hơn là né tránh nó”. Và có lẽ, tiềm năng và triển vọng của đội ngũ những người viết văn trẻ chúng ta phần lớn được quyết định bởi nỗi đau sáng tạo này cũng như sự nỗ lực vượt lên chính mình trên từng trang viết của mỗi nhà văn chứ không chỉ đơn thuần là sự quan tâm của các lực lượng xã hội mà trực tiếp nhất là sự chia sẻ của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Không biết các bạn có đồng ý với tôi…!?

       Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17.05.2011
TRẦN HOÀI ANH
 (Tham luận tại Hội nghị
Những người viết văn trẻ TP.HCM lần 3)




Nhà thơ Hoài Vũ: Có nỗi thương đau, có niềm hy vọng

Thi sĩ Hoài Vũ tâm sự với chúng tôi: “Người ta nói tôi là người Long An cũng phải. Long An đã trở thành quê hương thứ hai của tôi. Ngoài Long An, tôi còn gắn bó với hai vùng đất khác là miền Đông Nam bộ và vành đai ven Sài Gòn, những nơi nuôi dưỡng tôi trưởng thành, cung cấp nguồn sáng tạo vô tận cho trang viết của tôi”!
Từ trái sang, các nhà thơ: Phan Hoàng, Văn Lê, Hoài Vũ, Đặng Huy Giang

Kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước, thi sĩ Hoài Vũ cũng chuẩn bị sinh nhật thượng thọ 80 tuổi vào ngày 25-8. Trong niềm vui và hy vọng, ông cũng đau đáu những nỗi xót xa, khi nhìn lại đã có nhiều bạn văn cùng thế hệ một thời chung chiến hào giờ lần lần vắng bóng...

Ký ức oanh liệt và bi thương

Người gốc Quảng Ngãi ở miền Trung nhưng gần cả đời thi sĩ chiến sĩ Hoài Vũ - Nguyễn Đình Vọng gắn bó với Sài Gòn và Nam bộ. Những bài thơ thành công nhất của ông, được chắp cánh thêm bởi âm nhạc, cũng viết về vùng đất này như: Vàm Cỏ Đông, Đi trong hương tràm, Anh ở đầu sông em cuối sông, Hoàng hôn lặng lẽ (Chia tay hoàng hôn),… và nhiều truyện ngắn, bút ký khác.

Với tư cách công dân, ông cũng đã xả thân vì lý tưởng, hoà mình trong dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc, tay bút tay súng ngược xuôi khắp miền Đông đất đỏ đến miền Tây sông nước. Nhiều đồng đội đồng nghiệp thân thiết của ông như Trần Hữu Trang, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thi, Lê Vĩnh Hòa… đã hy sinh trong cuộc chiến tranh ác liệt. Những người may mắn sống sót trở về từ chiến khu, sau 40 năm hòa bình, bây giờ kẻ trước người sau cũng đã lần lượt ra đi như các bạn văn: Viễn Phương, Diệp Minh Tuyền, Mai Văn Tạo, Chim Trắng, Võ Trần Nhã, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,… và cả Trần Bạch Đằng, vừa là đồng nghiệp vừa là lãnh đạo cấp trên trực tiếp của ông.

Vì vậy, đối với thi sĩ Hoài Vũ được sống thượng thọ đến tuổi 80, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của đất nước, trong đó có sự phát triển không ngừng của đội ngũ sáng tạo văn học nghệ thuật, là điều ông hết sức vui mừng. Thi sĩ chân thành cho rằng, số mình may mắn, nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Có lúc đang đi thì ông bị bom B.52 hất lấp, may có bụi le ngã gần ông kịp níu lại ngoi lên chứ không thì đã mất mạng. Lần khác ông bơi qua sông Bé, nước chảy mạnh làm đứt dây mây, ông chới với trôi giữa dòng nước dữ lồng lộn, nhưng may tấp vào… một gốc cây to nên lại thoát khỏi tử thần!

Đâu chỉ bom đạn mà rõ ràng trên chiến trường còn bao mối đe dọa nguy hiểm khác luôn rình rập sinh mạng con người. Nỗi ám ảnh lớn nhất với Hoài Vũ là những khi đi chiến trường ba bốn tháng để bám đất bám dân, nhưng có những vùng bị địch hủy diệt thành “vùng trắng” chẳng còn mảy may sự sống. Lúc thủy triều lên nhìn những dòng kênh rất thơ mộng. Lúc nước rút xuống thì xương người phơi trắng xóa, có cả những mái tóc dài thiếu nữ quấn vào thân tram nhìn thật đớn đau. Nỗi ám ảnh ấy cũng đã đi vào thơ ông, như trong bài Vàm Cỏ Đông:

“Có thể nào quên những con người
Tóc còn xanh lắm, tuổi đôi mươi
Dám đổi thân mình lấy tàu giặc
Nụ cười khi chết hãy còn tươi”

Chiến tranh đã lùi xa gần nửa đời người, nhưng ký ức oanh liệt và bi thương chiến trường thì không thể phai mờ trong lòng thi sĩ Hoài Vũ. Có những đêm ông thức trắng vì một kỷ niệm xốn xang nào đó. Ông kể: “Tôi nhớ anh Lý Văn Sâm, một nhà văn có tài, một chiến sĩ cộng sản vào tù ra khám, suốt đời bám trụ chiến đấu với tất cả tấm lòng. Tôi cũng quý anh Trang Thế Hy, một cây bút tâm huyết, đáng trân trọng. Anh Đoàn Giỏi, một tài năng văn chương đích thực. Anh Nguyễn Văn Bổng, một nhà văn gốc Quảng Nam nhưng chí cốt với Nam bộ, bất cứ nơi nào cần đến là anh có mặt. Và không thể quên anh Giang Nam, một con người chân chất, bình dị, sống có tình, gắn bó mật thiết với nhân dân. Giang Nam với tôi có đầy ắp kỷ niệm với nhau trên chiến trường Nam bộ. Còn nhiều và nhiều nhà văn đáng nói đến nữa, nhất là những người đã đem sinh mạng của mình đổi lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc”.

Khi thi sĩ Giang Nam sáng tác bài Quê hương cũng là lúc thi sĩ Hoài Vũ viết nên bài Vàm Cỏ Đông trong một đêm vượt sông ở Long An. Và cả hai bài thơ đều vượt thời gian, được người đọc các thế hệ mến mộ.

Tác phẩm kết tinh từ tấm lòng và vốn sống thực tế

Những khi trò chuyện với chúng tôi, thi sĩ Hoài Vũ ít nói về mình mà hay nhắc tới người khác, nhất là những đồng nghiệp thời văn nghệ giải phóng đã bám trụ xuyên suốt chiến trường, viết dưới mưa bom bão đạn, cống hiến nhiều tác phẩm có giá trị nhưng bây giờ ít được nói đến.

Từ kinh nghiệm bản thân ông cho thấy, khi nói tới Hoài Vũ nhiều người thường chỉ nhớ tới nhà thơ của những bài thơ tình nổi tiếng mà đầu tiên là Vàm Cỏ Đông vốn được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc thời còn chiến tranh. Ít có bạn đọc, nhất là giới trẻ sau này biết Hoài Vũ còn là tác giả nhiều truyện ngắn và bút ký có giá trị nhân văn sâu sắc. Chẳng hạn, những truyện ngắn Người Sài Gòn, Gái thời chiến, Tiếng sáo trúc, Bông huệ trắng, Bông sứ trắng,... của Hoài Vũ một thời được nhiều người tìm đọc và chờ đợi nghe trên đài. Và hàng loạt bút ký của ông nóng bỏng hơi thở chiến trường viết về những tấm gương, đơn vị anh dũng trong chiến đấu: Đồng bằng đổ lửa, Cánh én trên Vườn Thơm, Vàm Cỏ Tây dậy sóng, Gái Lương Hoà, Nữ pháo binh thành phố, Làng hầm,...

Không cầu kỳ câu chữ, văn chương Hoài Vũ luôn mộc mạc, tự nhiên, trẻ trung, da diết và nhân hậu như chính con người của ông, dù đó là thơ tình hay truyện ngắn, ký sự viết giữa lửa đạn.Trải nghiệm thực tế đau thương và hào hùng của chiến trường đã giúp Hoài Vũ trưởng thành và viết nên những tác phẩm trung thực, sâu sắc. Ông thổ lộ: “Một điều tôi lấy làm tự hào là tất cả tác phẩm của mình đều được kết tinh từ tấm lòng và vốn sống thực tế chứ không phải bịa đặt. Đó là vốn sống của chính tôi, vốn sống của đồng đội và nhân dân ngay trên chiến trường khắc nghiệt nhưng cũng đầy tình yêu thương”.

Có điều thú vị, nếu không rõ tiểu sử Hoài Vũ thì nhiều người cứ ngỡ thi sĩ của Vàm Cỏ Đông là người Long An, vì hầu hết sáng tác của ông đều gắn với mảnh đất này. Không chỉ thời chiến mà cả thời bình Hoài Vũ vẫn gắn bó với Long An, như cái tình cháy bỏng thiết tha ông viết Đi trong hương tràm:

“Dù đi đâu dù xa cách bao lâu
Dù gió mây kia đổi hướng thay màu
Dù trái tim em không trao anh nữa
Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau
Gió Tháp Mười đã thổi, thổi rất sâu
Có nỗi thương đau có niềm hy vọng
Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng
Hương tràm bên anh, mà em đi đâu?”

Thi sĩ Hoài Vũ tâm sự với chúng tôi: “Người ta nói tôi là người Long An cũng phải. Long An đã trở thành quê hương thứ hai của tôi. Ngoài Long An, tôi còn gắn bó với hai vùng đất khác là miền Đông Nam bộ và vành đai ven Sài Gòn, những nơi nuôi dưỡng tôi trưởng thành, cung cấp nguồn sáng tạo vô tận cho trang viết của tôi”!

Người xưa bảo: “Đất lành chim đậu”. Thành ngữ ấy rất đúng với đất Nam bộ đã cưu mang Hoài Vũ và nhiều thế hệ văn nghệ sĩ từ khắp nơi không ngừng về đây, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh cứu nước. Mang ơn sâu nặng đất lành này, ông chia sẻ: “Đất Nam bộ trù phú, phóng khoáng, bi tráng, dung chứa nhiều nhân tài. Văn học Nam bộ là sự hội tụ của những tấm lòng, tài năng cả nước. Nhà thơ Nguyễn Bính để lại dấu ấn Nam bộ rất sâu. Nhà văn Nguyễn Thi cả cuộc đời chiến đấu và hy sinh ở đất này. Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh vào chiến trường Nam bộ trong chống Mỹ đã có nhiều đóng góp cho văn học kháng chiến…”!

Nếu không gắn bó bền lâu với Nam bộ thì khó có cái nhìn bao quát như thi sĩ Hoài Vũ, mảnh đất làm nên tên tuổi và sự nghiệp ông với những ký ức “Có nỗi thương đau, có niềm hy vọng” không thể nào quên!

PHAN HOÀNG
Theo SGGP



Thứ Ba, 26 tháng 6, 2018

Nhà văn Sơn Nam: Càng gần càng thấy lạ

Mới đó mà đã năm năm rồi. Năm năm trong chớp mắt ngậm ngùi, trong tiếc nhớ khôn nguôi về một nhà văn suốt đời dành ngòi bút mình viết về một vùng đất, những con người mà với ông quá đỗi thân thương và vô cùng gần gũi...
Nhà văn Sơn Nam

Mới đó mà đã năm năm. Năm năm những con đường, những cơ quan, những chùa chiền, đền miếu, những đình làng, lễ hội ở phố thị Sài Gòn hay xóm ấp miền Nam thiếu vắng bước chân ông - bước chân của con người trải dài những kiến thức đời mình trên những chuyến đi điền dã. Qua những chuyến đi, hồn đất, hồn sông, hồn người như được khai quật, tô bồi trong lớp lớp phù sa của một thời mở đất.
Ông là nhà văn Sơn Nam.

Tôi đọc văn ông từ hồi còn học trung học, nhưng biết và gặp gỡ ông thì phải đến lúc trưởng thành. Có thể nói, đối với tôi, nhà văn Sơn Nam là một điều gì đó vô cùng... bí mật. Bí mật đến phút cuối cùng. Hơn 30 năm quen biết ông, từ họp hội, làm việc cùng cơ quan, cho đến lúc gần như trở thành người "quản lý" tài chính của ông, với tôi - nhà văn Sơn Nam vẫn là một người luôn mang đến điều bất ngờ choáng ngợp.

Choáng ngợp đầu tiên là hơn 30 năm sống ở Sài Gòn, dù rất nổi tiếng trong "trường văn trận bút", ông vẫn là người đi ở nhà thuê, không một tấc đất chính chủ để cắm dùi. Chuyện ông đi thuê nhà ở, lúc mới đầu nghe nhà thơ Huỳnh Kim nói, tôi cứ ngỡ là chuyện đùa, té ra là sự thật. Mãi đến khi tôi chính thức chuyển công tác về Hội Nhà văn Tp HCM, thì một trong những công việc hàng đầu phải lo là làm thủ tục cho ông và cho nhà văn Lý Lan nhận nhà. Ông thì nhận nhà trệt ở hẻm đường Đinh Tiên Hoàng, quận Bình Thạnh, gần Trường Trung học Võ Thị Sáu; còn Lý Lan thì nhận phòng trong khu nhà góc ngã tư Nguyễn Tri Phương - An Dương Vương, quận 5, gần khu La Kai. Chuyện này có được, nghe đâu cũng là nhờ thư tay của ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Và vì là thủ lĩnh ở hai quận nên anh Sáu Quang Nguyễn Chơn Trung (Bình Thạnh) và anh Năm Nghị Phạm Chánh Trực (quận 5) phải đảm nhiệm. Bình Thạnh thì gần lăng Ông Bà Chiểu cho nhà văn Sơn Nam tiện việc đi lại tham gia Ban tế lễ lăng Lê Văn Duyệt; còn quận 5 thì không xa trung tâm người Hoa ở Chợ Lớn để nhà văn gốc Hoa Lý Lan không xa nguồn cội. Có thể nói, từ khi lên Sài Gòn làm báo viết văn năm 1955 đến khi được có căn nhà mang tên chủ hộ là mình, nhà văn Sơn Nam đã có hơn 30 năm sống ở Sài Gòn trong tư thế của người trắng tay về tài sản vật chất, chỉ có tài sản tinh thần, do bức bách của cuộc sống, phải viết lách để nuôi sống bản thân và gia đình, nên mới có nhiều tác phẩm. Hai mươi năm ở Sài Gòn, ông là người làm nghề viết tự do, không trực thuộc một đơn vị quản lý nào cả, cho nên phải tự mình lo cho mình nhiều thứ, chứ chẳng có được sự ưu tiên ưu đãi nào. Mãi đến ngày Sài Gòn giải phóng, ông mới trở thành cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ thành phố Sài Gòn - Gia Định, sau đó năm 1981 thì được biên chế chính thức trong đội ngũ cán bộ sáng tác của Hội Nhà văn trước khi nghỉ hưu năm 1992.

Choáng ngợp thứ hai là dù viết khá nhiều sách, nhưng hầu như ở nhà ông không còn quyển sách nào của ông cả, cho dù là một bài báo, hay một mẩu truyện ngắn, một trang bản thảo lưu. Tất cả sáng tác cũ mới của ông đều được viết tay hay đánh máy độc bản và được giao cho bộ phận sử dụng liên quan như toà soạn, nhà xuất bản hay nhà in lưu giữ. Còn bản thân ông thì lại lưu giữ sách vở của người khác để làm tài liệu tra cứu, phục vụ cho việc viết lách của ông. Có lẽ một phần do điều kiện chỗ ở không cho phép ông có thư viện riêng ở nhà để tra cứu, nên có thể nói những địa chỉ ông thường lui tới, la cà là những nơi có nhiều sách tham khảo và nhiều tài liệu lưu trữ. Nghe nói rằng, thời ông quen nhà văn, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển lúc ông mới chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, thì cái thư viện nhà ông Sển với vô số tài liệu lưu trữ lý thú là nơi gợi mở cho ông viết cuốn "Tìm hiểu đất Hậu Giang". Cuốn sách này ra đời sau cuốn "Chuyện xưa tích cũ" in lần đầu năm 1957, sau đó ông cùng với nhà báo Tô Nguyệt Đình cùng đứng tên viết và bổ sung thêm một số mẩu chuyện để có độ dày như hiện nay. Còn tập truyện ngắn "Hương rừng Cà Mau" thì mãi đến sau mùa xuân năm 1962 mới xuất bản, nghĩa là sau gần 7 năm ông từ quê nhà Rạch Giá lên xứ Sài Gòn. Có thể nói "Tìm hiểu đất Hậu Giang" là tập sách biên khảo đầu tiên được viết dưới dạng văn chương lôi cuốn và thú vị. Nó có số liệu, có dẫn chứng, nhưng vẫn ngồn ngộn chất thi hứng của một người sáng tác, người viết văn hơn là của một nhà khoa học kinh viện.

Sơn Nam có thói quen rất lạ là không bao giờ tặng sách cho ai, dù người đó thân quen đến cỡ nào. Ông cho rằng, người đọc quý trọng mình thì trước hết phải bỏ tiền túi ra, đồng tiền làm từ công sức lao động của mình mà có. Mua sách và xin chữ ký thì ông sẵn sàng ký tặng. Cho nên dù trước giải phóng, lần đầu in tác phẩm nào cũng có những bản đặc biệt, có đánh số hoặc ghi ký hiệu, nhưng dường như ông không còn bản sách nào trong số đó cả. Thậm chí, khi ký kết giao toàn bộ bản quyền tác phẩm của mình cho Nhà xuất bản Trẻ vào tháng 3-2003, ông cũng chỉ giao cho Nhà xuất bản Trẻ thêm chưa tới 10 đầu sách, chưa kể những đầu sách đã in ở Nhà xuất bản Trẻ. Còn lại là tên tác phẩm thôi. Nhà xuất bản phải đi tìm, đi sưu tập để có được.

Sau những hoạt động kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh với những bài báo, bài viết, cuộc trả lời phỏng vấn phát thanh và truyền hình, những buổi nói chuyện ở cơ quan đơn vị, hình ảnh Sơn Nam như thường trực trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhà văn lại trở lại với những hoạt động thường ngày của mình. Ông lại đi, lại đi, hết miền Đông lại về miền Tây. Ông đi như một thói quen không thể nào bỏ được. Và rồi, khi khả năng viết dài không còn đủ, và cũng theo gợi ý của Nhà xuất bản Trẻ, ông tập trung viết lại chuyện đời mình từ ấu thơ cho đến lúc bấy giờ, nhằm giúp cho bạn đọc có thêm cơ sở để tiếp cận với thời và thế. Ông cứ viết theo từng giai đoạn, thong dong mà không gò ép, vả lại ông cũng chẳng đảm nhiệm vai trò quan chức gì to tát trong suốt cuộc đời mình, cho nên hồi ký cũng chẳng có gì phải tô, phải vẽ cho "ra dáng". Ông viết từng giai đoạn ngắn, không quan tâm đến việc đặt tên cho từng thời kỳ, khiến biên tập viên là tôi phải hỏi ý ông về tên sách cho mỗi tập khi xuất bản. Những tập hồi ký nhỏ ấy thật ra không nhỏ một chút nào. Nó dung chứa một giai đoạn lịch sử một cách tương đối khách quan, không nhuốm màu chủ kiến. Nó thật sự là tiếng lòng của người thường dân, đặc biệt là người thường dân cầm bút. Bốn tập hồi ký với hơn 500 trang in được viết trong vòng hơn 3 năm, trong đó có nhiều đoạn viết tay, đôi đoạn đánh máy, và dăm ba đoạn là được cắt từ một số bài báo rồi chua thêm đôi ba câu dẫn. Về chữ viết, càng về già, chữ viết ông càng sít lại, nhỏ hơn và nhiều khi thiếu nét. Người biên tập là tôi nhiều khi phải ngồi phiên chữ ra cho rõ để kỹ thuật viên có thể nhập liệu được. Dù khó khăn nhiều nhưng cuối cùng bốn tập hồi ký "Từ U Minh đến Cần Thơ", "Ở Chiến khu 9", "Hai mươi năm giữa lòng đô thị" và "Bình An" cũng đã lần lượt ra mắt bạn đọc. Có thể nói hồi ký là 4 tập sách dài hơi cuối cùng mà nhà văn viết, bởi sau đó ông chỉ viết ngắn, và cho đến năm 2005, sau khi bị tai nạn đụng xe thì gần như không viết gì nữa.

Được dịp đi ngao du cùng ông về miền Tây, ra Hà Nội trong những ngày hội nghị viết văn tôi càng lúc càng thấy kiến văn của ông quả thật hơn người. Bên trong cái thân xác gầy mòn yếu ốm là cả một nghị lực phi thường, một tài năng chăm chỉ giũa mài và một tấm lòng vị tha đến bao la bát ngát. Nhiều người dân nghèo nhập cư nơi ông tạm ở trong những ngày rời gia đình sống lang thang ở Gò Vấp đã có công ăn việc làm, con cái được học hành nhờ vào tinh thần Mạnh Thường Quân của ông. Khi chưa bị bệnh và trở về nhà ở đường Đinh Tiên Hoàng, mỗi năm khi đến đầu năm học và tới dịp lễ Tết, tôi thấy ông lại đề nghị xuất tiền trong nguồn ngân quỹ do tôi tạm quản lý để mua sách vở, cặp táp và quà bánh tặng các cháu nhỏ nghèo. Ông còn đích thân đến trường để xin cho các cháu được vào học trường công lập bằng uy tín cá nhân của mình. Hẳn người dân trong xóm Trũng ở phường 7, Gò Vấp chẳng thể nào quên hình ảnh của ông - nhà văn Sơn Nam. Một hình ảnh mà có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ được gặp lại. Hình ảnh một ông già nhỏ thó, kính trắng trễ mũi, điếu thuốc luôn đỏ trên môi, thường xuyên ngồi quán cà phê ở Nhà Văn hóa quận Gò Vấp trên đường Nguyễn Văn Nghi (gần ngã năm Chuồng Chó), chuyện trò với nhiều hạng người, nhiều loại người, hoặc âm thầm rút vào một góc thư viện để đọc sách và nghiên cứu. Một con người bình dị đến tuyệt vời như thế, một con người chân đi không biết mỏi, mà những năm cuối đời phải nằm nhà quả là một... bất hạnh lớn lao.

Dù sao ông cũng giã từ cuộc đời, giã biệt chúng ta đã tròn năm năm. Một chút hồi tưởng để nhớ về ông trong những ngày tháng này sẽ làm chúng ta yêu hơn những trang văn ông để lại cho đời, cho mỗi con người đã đọc ông trên muôn dặm đường đời.

PHẠM SỸ SÁU
Nguồn: VNCA





Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

Văn hóa ứng xử trong cộng đồng

Cùng với nhịp sống ngày càng sôi động và bề bộn, những lời than phiền, cảnh báo, lo ngại về lối ứng xử của một bộ phận người Việt hiện nay cũng ngày một nhiều hơn. Chính sự xuống cấp ấy đang gây nên những xáo trộn không nhỏ các chuẩn mực văn hóa trong xã hội. Một câu hỏi lớn đang đặt ra là chúng ta, trong đó có trách nhiệm của những người làm công tác văn hóa - giáo dục, phải làm gì để có thể kịp thời điều chỉnh và xây dựng hệ giá trị văn hóa ứng xử mới, phù hợp hơn với xã hội hiện đại?

Sự hối thúc từ những điều trông thấy

Có lẽ chưa bao giờ, văn hóa ứng xử nơi công cộng của người Việt lại trở thành mối lo lắng, quan ngại thường trực của mỗi người dân và cả cộng đồng xã hội như hiện nay. Bất cứ ở đâu, đô thị hay nông thôn, không khó để bắt gặp những hành vi “chướng tai gai mắt” được người dân vô tư thể hiện. Nói tục, chửi bậy hay xả rác nơi công cộng có lẽ… vẫn còn là nhẹ. Cướp hoa, bẻ cành trong các lễ hội, hay chen lấn, xô đẩy bất kể trẻ em, người già dường như đã trở thành chuyện thường ngày. Văn hóa giao thông thật sự trở thành một mối nguy, với quyền chiếm ưu thế thuộc về những kẻ bất chấp luật lệ, khiến những người hiền lành luôn phải mang tâm lý chấp nhận thua thiệt để được yên thân, và tự nhủ “tránh voi chẳng xấu mặt nào”.

Trong bối cảnh ấy, mỗi khi thể hiện sự lo lắng, hoang mang trước những lối ứng xử không đẹp dù ở bất cứ đâu, người ta thường lấy Hà Nội ra lý giải cho tiếng thở dài đầy nuối tiếc. Rằng, ngay cả niềm tự hào “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” giờ cũng đã trở nên xa xưa rồi, thì có lẽ sự xuống cấp kia đã chạm đến giới hạn! Phải vậy chăng mà Hà Nội đã đi đầu cả nước trong việc đưa ra đề án “Xây dựng hệ thống quy tắc ứng xử trong cơ quan, đơn vị cộng đồng dân cư”? Và cho dù Đề án này đang gây nhiều tranh cãi, thậm chí một số nhà nghiên cứu còn cho rằng đây là việc làm thiếu cơ sở khoa học, thì ít ra nó cũng cho thấy tính cấp bách của vấn đề.

Người dân vô tư xả rác nơi công cộng. Ảnh: QUANG DŨNG

Vẫn biết, văn hóa không phải lĩnh vực có thể dùng sự áp đặt. Trái lại, nó cần có môi trường lành mạnh để hình thành và phát triển. Song, nhìn rộng ra trên thế giới, việc xây dựng bộ Quy tắc ứng xử rất phổ biến. Theo Wikipedia, Quy tắc ứng xử (Code of Conduct) được hiểu là “một bộ quy tắc nhằm phác thảo tiêu chuẩn, quy tắc và trách nhiệm trong xã hội trong hành xử thực tế của cá nhân, tổ chức hay đảng phái. Quy tắc ứng xử thông thường gắn với các khái niệm như đạo đức, danh dự hay tôn giáo”.

Năm 2007, Liên đoàn Kế toán Quốc tế (International Federation of Accountants) đưa ra khái niệm khác, cụ thể hơn: “Bộ quy tắc ứng xử là những nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực hoặc những quy tắc ứng xử để hướng dẫn việc ra quyết định, quy trình và hệ thống của một tổ chức nhằm (a) đóng góp cho phúc lợi của những người hưởng lợi chính của tổ chức ấy, và (b) tôn trọng quyền của tất cả những người chịu ảnh hưởng bởi công việc của tổ chức”.

Các công ty lớn trên thế giới đều có Bộ quy tắc ứng xử của mình như Coca Cola, Unilever… Đây là văn bản nhân viên phải được học trước khi làm việc ở công ty để bảo đảm cho uy tín của công ty.

Nổi tiếng nhất có lẽ phải kể đến Tuyên bố Geneva (Declaration of Geneva) và Tuyên bố Helsinki (Declaration of Helsinki) do Hiệp hội Y khoa Thế giới đưa ra nhằm cam kết về mục tiêu nhân văn của ngành y, nhất là sau những thí nghiệm vô nhân đạo của phát-xít Đức trong Thế chiến 2.

Như vậy, chúng ta có thể thấy Bộ Quy tắc ứng xử là rất cần thiết và phổ biến nhưng chỉ trong phạm vi tổ chức và ngành, vì đặc trưng công việc của ngành hay tổ chức ấy. Việc xây dựng quy tắc ứng xử cho địa phương chưa từng có tiền lệ và khó khả thi vì phạm vi quá rộng và lĩnh vực quá đa dạng.

Theo dịch giả Bùi Văn Nam Sơn, thì: “Nền tảng của văn hóa ứng xử chính là những giá trị và chúng ta đang bị khủng hoảng về giá trị thực sự, trước hết là sự xung đột giữa những giá trị cổ truyền với vai trò quan trọng của Nho giáo, với một xã hội hội nhập hiện nay. Nếu không chọn được những giá trị nền tảng, mà để cho những giá trị hoang dã là quyền lực, tiền bạc, hưởng thụ và danh vọng ảo thống trị thì dần dần chúng sẽ phá đi những nền tảng văn hóa tốt đẹp của xã hội”.

Khi hệ thống giá trị cũ bị dẹp bỏ, giá trị mới chưa xác định được nên nhiều người đành phải bám vào cái mà người ta cho là cụ thể nhất, dễ cảm nhận nhất là đồng tiền. Nhưng khi đồng tiền được tôn vinh, lấn át mọi giá trị khác thì khái niệm “có tiền” và “có văn hóa” không còn song hành. Điều nguy hiểm nhất là càng có nhiều tiền, người ta càng dễ trở thành người của công chúng, có tầm ảnh hưởng đối với xã hội, những biểu hiện thiếu văn hóa của họ sẽ lan truyền rất nhanh, gây ảnh hưởng hết sức tai hại với cộng đồng, làm văn hóa xã hội càng xuống cấp như nhiều thí dụ trong thời gian gần đây của những người nổi tiếng. Những tin tức kiểu “siêu đám cưới”, “bước vào showbiz” của những đại gia làm giàu không nhờ trí tuệ, những lùm xùm tố nhau về danh hiệu “nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú” của những người đáng ra phải là mẫu mực về ứng xử trong xã hội càng làm giới trẻ mất niềm tin.

Điều chỉnh, bắt đầu từ gốc rễ nhận thức

Kim chỉ nam của quy tắc ứng xử phải là: Tôn trọng sự tự do lựa chọn của con người, nghĩa là mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn cách ăn mặc, ứng xử… miễn là Không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khác và của xã hội. Thí dụ: Cá nhân có quyền hút thuốc lá nhưng khi hút ở nơi công cộng, làm ảnh hưởng đến những người khác thì không thể chấp nhận. Với những địa phương có truyền thống văn hóa lâu đời như Hà Nội thì cần nâng cấp lên thành văn hóa ứng xử tức là cần có hành xử đẹp mắt - ngoài việc tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người khác và của xã hội, còn cần có sự tinh tế trong cách ăn mặc, ứng xử để giữ gìn và xây dựng truyền thống cho Hà Nội.

Để nâng cao văn hóa ứng xử trong xã hội, cần bắt đầu điều chỉnh từ thế hệ trẻ và gốc rễ phải là từ gia đình, vì đây mới là nơi trẻ học được những giá trị sống thật sự và những kỹ năng sống trong cuộc đời. Các bậc bố mẹ trước hết phải làm gương cho con, không thể bố mẹ vượt đèn đỏ khi chở con, xui con quay cóp cho khéo, nhận tiền tham nhũng tại nhà… mà lại dạy con hành xử có văn hóa được. Thực tế cho thấy, dù hoàn cảnh xã hội có tha hóa đến đâu, nếu giữ được nếp nhà thì người trẻ sẽ có bản lĩnh đối phó với cái xấu.

Nhà trường cũng cần định hình những phong cách văn hóa ứng xử phù hợp và đưa vào nội dung giảng dạy cho học sinh các cấp thông qua những hình ảnh, tình huống, câu chuyện cụ thể để hướng dẫn các em cách ăn mặc, ứng xử trong giao tiếp như: Thế nào là trang phục phù hợp khi đi học, đi dã ngoại, đi nhà hát..., cách ăn uống, chào hỏi, cư xử khi đến nhà bạn, khi đến nơi công cộng... Bên cạnh đó, những địa điểm như nhà hát, thư viện, trung tâm mua sắm, cần có quy tắc ứng xử rõ ràng cho cả người tham dự và nhân viên. Nếu không có cơ chế bắt buộc thi hành thì văn hóa ứng xử sẽ không thể nhân rộng, thậm chí ngày càng thui chột đi.

Các nhà văn hóa có thể tổ chức các khóa dạy văn hóa ứng xử cao cấp hơn cho thanh thiếu niên và mọi người quan tâm như cách tặng hoa cho bố mẹ, cho bạn gái, người yêu, cách bày bàn ăn khi mời khách… Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cũng cần có những khóa dạy cách mặc trang phục, ăn uống kiểu phương Tây để mọi người khỏi bỡ ngỡ khi tiếp xúc với người nước ngoài.

Các phương tiện thông tin đại chúng cũng cần vào cuộc, xây dựng các chương trình thực tế chung quanh chủ đề này. Thực tế cho thấy, người trẻ rất khát khao học văn hóa ứng xử, chỉ là không biết học ở đâu và thế nào là chuẩn mực. Từ việc xây dựng ý thức tuân thủ các quy định, cũng như bồi đắp nền tảng nhận thức về văn hóa trong mỗi con người, sẽ là tiền đề để nâng cao văn hóa ứng xử cho cả xã hội.

Quy tắc ứng xử ở đây được hiểu là chuẩn mực xã hội (social norms) và nó là một phần của văn hóa. Văn hóa ứng xử sẽ bao gồm những chuẩn mực xã hội về mọi hành vi của con người như trang phục, cách nói năng, cử chỉ, ăn uống… trong quan hệ với người khác, đặc biệt là ở nơi công cộng. Chúng ta cần làm rõ những khái niệm này để có thể tìm ra nguyên nhân của sự khủng hoảng văn hóa trong thời gian gần đây và đưa ra cách giải quyết.

PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH
Báo Nhân Dân


Bài đăng mới nhất

TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI CUỘC THI “MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI”

Sau 8 tháng diễn ra, cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức (với sự tài trợ giải t...

Bài đang đọc nhiều