Triết gia Trần Đức Thảo
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng những kỷ niệm
thời còn là sinh viên Trường
Đại học Sư phạm vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Lớp văn khoa 1954 -
1957 được các thầy Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Trương Tửu,
Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Lương Ngọc, Hoàng Xuân Nhị giảng dạy. Ngày nay, đi trên đường phố Hà Nội, Tp
HCM, ta luôn bắt gặp và tự hào với tên phố của các thầy Đặng Thai Mai, Nguyễn
Khánh Toàn, Hoàng Xuân Nhị, Đào Duy Anh… Nhiều thầy được tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh. Như một dàn sao sáng trên trời đêm, nhiều ngôi sao đã lặn, đã
tắt nhưng còn để lại ánh sáng
cho đời.
Hồi ấy dạy chúng tôi, các thầy đã thành danh, thành đạt
nhưng tuổi tác chưa nhiều. Vào năm 1955, thầy Cao Xuân Huy mới 55 tuổi, thầy
Đào Duy Anh 51 tuổi, thầy Đặng Thai Mai 53 tuổi, thầy Hoàng Xuân Nhị 41 tuổi,
thầy Trương Tửu 42 tuổi và trẻ nhất
là thầy Trần Đức Thảo 38 tuổi. Thầy Thảo có dáng vẻ một trí thức phương Tây. Kể
cũng khó đoán định thầy qua tướng mạo bên ngoài. Có lần nhà thơ Tế Hanh nói: Có
hai người gặp ở ngoài đời có thể đoán được ngay là nhà thơ: Xuân Diệu với mái
tóc bồng đẹp, rủ xuống trán, luôn ngó nghiêng ngơ ngác, nhìn lên trời,
còn Đinh Hùng lại có dáng con gái, da trắng, tóc mai xoăn từng món nhỏ trông rất
đẹp. Giáo sư Trần Đức Thảo với dáng người thư sinh, đôi kính trắng, vầng trán
cao nhưng không thể nghĩ thầy là nhà thơ. Thầy nghiêm, nét mặt lạnh và như đang suy nghĩ - đúng là nhà triết học
duy tâm của một thời. Ngày nay, các nhà triết học bình dị hơn, người đi bộ đội về, vào đại học, học
ngành triết, người từ cán bộ phong trào tự học mà thành.
Thầy Trần Đức
Thảo là nhà triết học nổi tiếng. Thầy được ghi danh vào cuốn Tự điển "Những
nhà triết học" (Nhà xuất bản Đại học Paris - 1984) với sự giới thiệu trang
trọng. Ngoài mục từ "Trần Đức Thảo" có mục từ "Nguyễn Đình
Thi" với bốn tác phẩm triết về Kant, Descartes, Siêu hình học, Nietzche viết
ở tuổi còn trên ghế nhà trường Đại học.
Thầy Thảo là tác giả của nhiều cuốn sách có tầm cỡ thế giới: "Nghiên cứu
nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức"; "Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng";
"Vấn đề con người và chủ nghĩa "lý luận không có con người" và những huyền thoại về cuộc
tranh luận thắng thế về triết học của thầy ở nước ngoài.
Chúng tôi được
học thầy Thảo về triết học duy tâm, chủ yếu là của phương Tây. Thầy Thảo vốn ở
Pháp về cùng với một số trí thức trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp như Trần
Đại Nghĩa ở Đức về, Đặng Văn Ngữ ở Nhật về. Các nhà khoa học tự nhiên có thể
đóng góp ngay cho yêu cầu của cuộc kháng chiến: Giáo sư Trần Đại Nghĩa chế loại
súng SKZ và Bazôka; Giáo sư Đặng Văn Ngữ chế thuốc kháng sinh. Giáo sư Trần Đức
Thảo được bố trí vào công việc nghiên cứu khoa học xã hội. Là một nhà
triết học duy tâm nổi tiếng, Trần Đức Thảo bắt đầu từ đầu với triết học duy vật
biện chứng. Nghe nói có một vị lãnh đạo nói với giáo sư: Anh không thể bước từ
đỉnh của triết học duy tâm sang đỉnh của triết học duy vật mà phải đi xuống, phải
"hạ sơn" rồi từ dưới leo dần lên đỉnh cao của triết học duy vật. Câu
nói hay nhưng thực ra Giáo sư Trần Đức Thảo cũng đã nghiên cứu triết học duy vật
biện chứng và có thành quả. Chuyện ấy là của một thời ở Việt Bắc và bây giờ thầy
Thảo đang dạy chúng tôi. Lớp văn có khoảng hơn 100 sinh viên ngồi học ở giảng
đường lớn phố Lê Thánh Tông. Thầy đến trường bằng xe đạp Mercier. Thầy Thảo được
ưu tiên với xe Mercier đuyra, các thầy khác là Mercier sắt. Khi một vài anh em
chúng tôi được giữ lại làm cán bộ cũng được nhận một xe đạp Tourist của Tiệp.
Thầy Thảo thường phóng thẳng xe qua cổng lên dốc cao rồi dựa xe vào hành lang
và vào thẳng lớp. Mọi người đứng lên
chào thầy, thầy sẽ gật đầu và bắt ngay vào giảng, tay cầm micro nói một hơi cho
đến giờ nghỉ. Thầy lên văn phòng một lúc lại quay về lớp giảng tiếp một
hơi cho đến kết thúc. Không nói hùng
hồn, hùng biện như các thầy Trần Văn Giàu và Trương Tửu mà giọng nói đều đều
không vội vàng, không vấp váp như nước trong suối nguồn chảy ra. Phải có một tư
duy có hệ thống, có logic chặt chẽ trong cấu tạo ý tưởng mới có thể chuyển tải bài giảng dài không hề
lệ thuộc vào sách vở. Có lúc một tay thầy cầm micro một tay bỏ túi quần, mắt
như nhìn chúng tôi mà không nhìn vào ai cụ thể. Lớp chúng tôi cử ra hai
anh là Nguyễn Đình Chú và Phạm Hoàng Gia, hai sinh viên chữ đẹp, viết nhanh để
ghi lại lời thầy. Không có ghi âm hoặc yếu tố nào hỗ trợ, các anh Nguyễn Đình
Chú và Phạm Hoàng Gia được dành 2 ghế ở hàng đầu có đánh dấu phấn để các anh tiện
công việc. Các anh về xem lại phần ghi chép và gửi đến thầy, thầy chỉnh lý rồi
cho in, giờ học sau chúng tôi đã có bài giảng kịp thời. Có anh chị nói vui: Thầy
nào cũng như thầy Thảo thì việc
viết sách giáo khoa rất thuận tiện và không tốn kém.
Từ Việt Bắc về
Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn giữ nguyên được vốn quý triết học nhưng về chính trị, thầy chưa trải nghiệm
qua nhiều thử thách. Đúng lúc này phong trào Nhân văn - Giai phẩm xuất hiện.
Trường đại học là một "cứ điểm" mà các phần tử xấu bên ngoài có ý
thức khai thác lợi dụng. Các Giáo sư
Trương Tửu, Trần Đức Thảo đều có bài viết. Giáo sư Trần Đức Thảo với bài:
"Nỗ lực phát triển tự do dân chủ" (đăng trên Nhân văn số 3,
15-10-1956), trong đó tác giả đề cao, nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển tự do cá
nhân. Tác giả phê phán những tư tưởng làm hạn chế sự phát triển xã hội
như quan liêu, bè phái, giáo điều,
sùng bái cá nhân. Tác giả cho rằng "xét đến tình hình thế giới mới
đây lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội".
Bài viết của Giáo sư Trần Đức Thảo không chống Đảng, không chống CNXH. Tuy nhiên, tác giả đã
quá đề cao tự do cá nhân trong tình hình khuynh hướng xấu đang khoét sâu vào sự lãnh đạo, ở
nơi này nơi khác có phần gò
bó về tư tưởng, xem nhẹ vai trò
của cá nhân. Có thể nói tác giả đã thiếu nhạy cảm trước tình hình phức tạp của thời kỳ này, đặc
biệt là những hoạt động của khuynh hướng xấu. Kết quả là Giáo sư Trần Đức Thảo bị ngừng giảng dạy, một số cuộc họp
trong trường phê phán Giáo sư Trương Tửu và Giáo sư Trần Đức Thảo. Trong một
bài viết, một giáo sư bạn của Giáo sư Trần Đức Thảo có những lời lẽ nặng nề:
"Trần Đức Thảo lợi dụng chính ngay bục nhà trường của chúng ta để phun ra
những nọc độc chống lại chủ nghĩa xã hội".
Là một sinh viên nghe giảng hết cả giáo trình dài của
Giáo sư Trần Đức Thảo, tôi thấy nhận
xét trên là không đúng.
Chuyện qua đã
lâu, thầy nói đúng, thầy nói chưa đúng đều là thầy, và chắc khi thời cuộc
"hạ nhiệt", các thầy không nghĩ thế và không nói thế. Thầy Thảo bắt đầu
nghỉ việc giảng dạy ở trường. Từ đấy, thỉnh thoảng tôi trông thấy thầy đi bộ
trên hè phố Hàng Chuối, đôi lúc vừa đi vừa độc thoại những điều gì, như đang chuyện trò với ai. Từ đấy,
thầy phải lo toan chuyện sinh hoạt riêng, thỉnh thoảng đi mua bán với chiếc xe
đạp con vịt Liên Xô có nâng cao yên, cổ xe quàng một chiếc bị để tiện mua bán.
Sau những năm tháng chịu đựng nhiều vất vả nhưng thầy Thảo
không hề oán giận, trách móc, thầy vẫn lặng lẽ sống chịu đựng, quan tâm đến
nghiên cứu khoa học, nhận những công việc được giao phó và hoàn thành có trách
nhiệm. Những năm cuối đời, thầy sang Pháp một thời gian và lưu trú trong một nhà trọ tập thể của sứ quán, số 2
Le Verrier. Sau một cơn đau đột ngột, thầy mất và cơ quan gửi về nước một bình
tro - phần còn lại của nhà triết học. Sau đó một thời gian, ở đại giảng đường
Trường Đại học Tổng hợp tổ chức tưởng niệm thầy. Tôi cũng được tham dự và thắp
một nén nhang kính viếng thầy. Tôi nghĩ miên man, và hình dung hình ảnh thầy,
cũng ở giảng đường này truyền đạt kiến thức như cha đạo giảng cho các con chiên
và hôm nay chỉ còn lại một bình tro lạnh với những nén hương tỏa bay, khói tưởng niệm một tài năng lớn. Thầy
đã về cõi vĩnh hằng.
Hiểu rõ tài năng và những đóng góp mà thầy đã sống và hoạt
động, Nhà nước đã truy tặng
thầy Huân chương Độc lập hạng Nhì
vào năm 1993. Năm 2000, thầy được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Năm 2000,
lúc tôi làm Viện trưởng Viện Văn học
được tham gia trong Hội đồng quốc gia về giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng
Nhà nước. Tôi được bỏ lá phiếu cho thầy và các thầy Phạm Huy Thông, Đào Duy
Anh. Thầy Thảo đạt phiếu cao, thầy Đào Duy Anh được thầy giáo phản biện Phan Ngọc
gọi là "nhà văn hóa khổng lồ". Thầy Phạm Huy Thông tuy ít sách nhưng
lại nhiều danh tiếng. Tất cả đều thành công.
Nói về đội ngũ
những nhà triết học Việt Nam, thầy Trần Văn Giàu chân thành tự nhận xét về mình,
về người: "Mình không có
truyền thống triết học nên có thể nói nếu có một nhà triết học thì người đó không phải là Trần Văn Giàu. Trần
Văn Giàu là một giáo sư triết học hay nhà nghiên cứu triết học. Người đó chính
là Trần Đức Thảo" (Báo Văn nghệ số ra ngày 3/6/1992).
Kỷ niệm 20 năm
ngày mất của Giáo sư Trần Đức Thảo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tổ
chức "Hội thảo khoa học quốc tế Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo" vào ngày 7/5/2013. Có
tất cả 48 bản tham luận xoay quanh ba vấn đề con người và sự nghiệp, tư tưởng
triết học Trần Đức Thảo và các lĩnh vực khoa học khác, trong đó có 5 tham luận
của các đại biểu quốc tế; gồm 4 giáo sư người Pháp và một giáo sư người Hoa.
Hà Nội, 6/5/2013
HÀ MINH ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét